BÀI LÀM
I.Khái quát về công ty cổ phần và một số vấn đề về huy động vốn trong công ty cổ phần:
1.Khái quát về công ty cổ phần:
Với tính chất như một hiện tượng kinh tế - xã hội, Công ty cổ phần nói riêng cũng như các loại hình công ty nói riêng đã trở thành một thực thể pháp lí. Trong khoa học pháp lí, hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau lại có các định nghĩa khác nhau về công ty cổ phần. Pháp luật hiện hành của Việt Nam không đưa ra định nghĩa cụ thể về công ty cổ phần mà chỉ đưa ra những dấu hiệu để nhận biết công ty cổ phần. Khoản 1 Điều 77 Luật doanh ngiệp 2005 có quy định rõ:
"Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
a) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa;
c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật này".
2.Khái niệm về vốn và cấu trúc vốn của công ty cổ phần:
Vốn của doanh nghiệp nói chung là giá trị được tính bằng tiền của những tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc sử dụng của hợp pháp của doanh nghiệp, được doanh nghiệp sử dụng trong kinh doanh. Có thể nói vốn là nhân tố cơ bản không thể thiếu của tất cả các doanh nghiệp. Cũng như các chủ thể kinh doanh khác, để tiến hành các hoạt động kinh doanh, công ty cổ phần phải có vốn. Là loại hình công ty đối vốn điển hình nên vấn đề vốn của công ty cổ phần là vấn đề hết sức phức tạp. Vốn của công ty cổ phần có thể được tiếp cận dưới nhiều góc độ, dựa trên những tiêu chí khác nhau. Căn cứ vào nguồn gốc hình thành vốn, vốn của công ty cổ phần được chia thành: vốn chủ sở hữu (vốn tự có) và vốn tín dụng (vốn vay).
Vốn chủ sở hữu: là nguồn vốn thuộc sở hữu của công ty, được hình thành từ nguồn đóng góp của cổ đông và vốn do công ty cổ phần tự bổ sung từ lợi nhuận của công ty.
Vốn tín dụng: là nguồn vốn hình thành từ việc đi vay dưới các hình thức khác nhau: vay ngân hàng, vay của các tổ chức, cá nhân khác hoặc vay bằng cách phát hành trái phiếu.
Điều quan trọng là công ty cổ phần phải có một tỉ lệ vốn vay trên vốn cổ phần hợp lí để phản ánh thế mạnh tài chính của công ty, vừa tạo niềm tin cho các đối tác của mình.
II.Huy động vốn trong công ty cổ phần:
Các chủ thể kinh doanh thường muốn có nguồn vốn lớn để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Công ty thường có hai cách để huy động vốn: tăng vốn chủ sở hữu và tăng vốn vay.
Theo Luật doanh nghiệp 2005, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh "không được quyền phát hành bất kì loại chứng khoán nào" (Khoản 3 Điều 130 và Khoản 2 Điều 141). Khả năng huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn có nhiều thuận lợi hơn nhưng cũng "không được phát hành cổ phần" (Khoản 3 Điều 38). Công ty cổ phần khẳng định sự lí tưởng hơn trong mô hình kinh doanh của mình bằng quyền phát hành chứng khoán được quy định trong Khoản 3 Điều 77 Luật doanh nghiệp 2005: "Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn". Trong các loại chứng khoán ấy, cổ phiếu là công cụ riêng của công ty cổ phần, nó đem đến ưu thế rất lớn cho công ty cổ phần nhờ khả năng thu hút vốn dễ dàng: có thể huy động được một nguồn vốn lớn do mở rộng đối tượng huy động; có thể giảm chi phí huy động vốn do tiếp cận trực tiếp với người đầu tư;...