Tôi tên Cốt Khung Thần.
Sinh ra trong thời thái bình thịnh trị, đạo pháp cùng tu tiên thịnh thế. Tôi xuất thân quần là áo lượt, là nữ nhi duy nhất của đệ nhất thương gia tại đế đô. Năm tròn mười tuổi, ước nguyện tôi vang danh đem lại vinh quang cho gia tộc, cha mẹ nhờ quen biết gửi gắm tôi vào một phái tu tiên tầm trung. Khi ấy, phái Quang Minh vẫn chưa có sức nặng như trăm năm về sau, cho nên việc tôi không dưng trở thành đệ tử thân truyền cũng chẳng hề khó nhọc gì.
Quang Minh dù là tiên phái nhỏ nhưng vẫn có những quy tắc riêng, năm mươi năm mới tuyển môn sinh một lần. Xếp theo vai vế bái sư khi ấy, hết thảy đồng môn khi gặp đều gọi tôi là "tiểu sư muội". Phía trên tôi là sư phụ - cũng là chưởng môn lúc bấy giờ, hai vị sư thúc và gần trăm các sư huynh, sư tỷ.
Có lẽ vì mang danh bé nhất trong phái nên tôi đặc biệt được các sư huynh, sư tỷ yêu mến. Trời sinh tính tôi đạm bạc, khó bày tỏ cảm xúc, vậy mà bọn họ lại vẫn xoa đầu khen tôi còn nhỏ đã hành sự trầm ổn, khí chất thanh lãnh, rất ra dáng đệ tử chốn tiên môn.
Lần đầu tiên tôi gặp mặt đại sư huynh là vào hôm bái sư nhập môn, một bộ bào trắng đai đen như bao đồng môn khác, nhưng huynh ấy lại nổi bật nhất trong mắt tôi. Huynh ấy đứng cạnh sư phụ, đường nét dung mạo sắc sảo như hoạ, nhưng ánh mắt và thần sắc khi nhìn tôi lại cực kì ôn hoà. Ráng chiều ngày 18 tháng Chạp năm Duệ Lân thứ 25, tôi trở thành tiểu sư muội của Thích Đàm.
Khi ấy sư phụ chưởng môn mới chỉ có ba đồ đệ thân truyền là đại sư huynh Thích Đàm, nhị sư huynh Hồn Hề và tôi - tiểu sư muội Khung Thần. Nhờ vậy chúng tôi có rất nhiều thời gian vui vẻ ở bên nhau, tôi nhập môn muộn hơn hai huynh ấy những gần trăm năm, hai sư huynh chính là động lực sống để tôi lao đầu như điên vào tu luyện, tự hiểu thứ tôi cần học là vô biên nhưng thời gian của người tu hành thì hữu hạn.
Năm mươi năm trôi qua, tiên môn phái Quang Minh mở rộng, thu nhận thêm mười lăm người đệ tử. Vậy nhưng người quen miệng gọi tôi là "tiểu sư muội" vẫn không ít, đại sư huynh cũng thế. Với người khác, tôi sẽ nhắc họ sửa lại, nhưng với Thích Đàm thì không, tôi muốn được mãi là "tiểu sư muội" của huynh ấy.
Không phụ sự kỳ vọng của cha mẹ và môn phái, qua bằng ấy năm, so tu vi với hai huynh ấy, tôi không hề thua kém quá nhiều, có chăng chỉ là kinh nghiệm thực chiến vẫn còn thiếu. Các sư thúc liền nâng tôi lên làm tấm gương "thiếu niên anh tài" cho toàn môn phái noi theo.
Khoảng mười năm sau đó, tôi trở thành nữ đệ tử đứng đầu tu tiên giới, cái danh "Khung Thần" từ đó luôn được đính kèm với hiệu "băng thanh ngọc khiết", nhờ đó tôi không thể ngừng than thở về bộ cơ mặt liệt của mình. Nhưng quan tâm chi những chuyện vặt vãnh ấy, cuối cùng tôi cũng đã làm rạng danh gia tộc, lại còn sánh danh với Thích Đàm.
Khi này, cha mẹ đã thôi nhọc nhằn vì tôi được mấy năm, thật buồn khi mà thời điểm tôi danh chấn giới tu tiên, hai người lại chẳng thể hay biết. Cũng còn an ủi, đồng hành cùng tôi trên hành trình tu tiên này, còn có một đại gia đình phái Quang Minh.
Tôi thích ngắm Thích Đàm luyện kiếm, kiếm khí của huynh ấy có nét rất riêng, kiếm pháp Quang Minh lấy nhu mà bén làm cốt, nhưng đường kiếm của huynh ấy trái lại, sắc sảo dứt khoát vô cùng, sư phụ đã bình phẩm, Thích Đàm đã tạo ra kiếm khí cho riêng mình. Sư phụ còn nói, nhìn kiếm khí có thể nhận thấy tâm người, có lẽ vì những đường kiếm lạnh lùng như thế nên trái tim của huynh ấy mới cứng rắn tới vậy. Dù bên đại sư huynh những trăm năm, tôi nhận ra bản thân vẫn chẳng thể bằng thiếu nữ Khúc Hoạ vừa đến.