Cơ chế điều chỉnh của pháp luật.
I. Điều chỉnh pháp luật:
1. Khái niệm điều chỉnh pháp luật:
- Điều chỉnh pháp luật được hiểu là việc nhà nước dựa vào pháp luật, sử dụng 1 loạt các phương tiện pháp lý đặc thù ( quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật, quan hệ pháp luật, những hành vi thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý) để điều chỉnh các quan hệ xã hội, tác động đến các quan hệ xã hội theo hướng nhất định.
- Đặc điểm: + Là 1 những loại hình của điều chỉnh pháp luật.
+ Là điều chỉnh có tính định hướng, tính tổ chức và tính hiệu quả.
+ Là sự điều chỉnh được thực hiện thông qua 1 hệ thống các phương tiện pháp lý cơ bản, đặc thù.
2. Phạm vi điều chỉnh pháp luật:
- Phạm vi điều chỉnh pháp luật là phạm vi các quan hệ xã hội được pháp luật nói chung điều chỉnh.
- Phạm vi điều chỉnh của 1 văn bản pháp luật là các quan hệ xã hội được các văn bản đó điều chỉnh. Nói cách khác, phạm vi điều chỉnh của 1 văn bản pháp luật là các vấn đề được đặt ra và giải quyết trong văn bản đó.
- Xác định phạm vi điều chỉnh của pháp luật là xác định ranh giới của việc sử dụng pháp luật vào việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
II. Cơ chế điều chỉnh pháp luật:
- Khái niệm "cơ chế điều chỉnh pháp luật" có ý nghĩa lớn về mặt phương pháp luận. Nó giúp cho người nghiên cứu tiếp cận pháp luật từ quan điểm hệ thống.
- Cơ chế điều chỉnh pháp luật là khái niệm phức tạp:
+ Dưới góc độ chức năng: là hệ thống các phương tiện pháp lý tác động đến các quan hệ xã hội thông qua chủ thể.
+ Góc độ tâm lý: là sự tác động đến ý chí của con người nhằm tạo ra cách xử sự thích hợp (với quy phạm pháp luật) ở chủ thể.
+Góc độ xã hội: nằm trong cơ chế xã hội, tức cơ chế tác động của các quy phạm xã hội lên các quan hệ xã hội nhằm tạo ra 1 trật tự xã hội phù hợp với lợi ích cộng đồng xã hội.
- Cơ chế điều chỉnh pháp luật là 1 quá trình thực hiện sự tác động của pháp luật lên các quan hệ xã hội: 4 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: là giai đoạn định ra các quy phạm pháp luật.
Cơ chế điều chỉnh pháp luật bắt đầu"hoạt động" bằng sự kiện đề ra các quy phạm pháp luật. Chính các quy phạm pháp luật buộc các chủ thể phải hành động phù hợp với lợi ích của sự phát triển xã hội mà khuôn mẫu của hành động đó do chính quy phạm đưa ra.
+ Giai đoạn 2: là giai đoạn áp dụng pháp luật. Đây là giai đoạn cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào các quy phạm pháp luật để ban hành các quyết định áp dụng pháp luật. ( có trường hợp không có giai đoạn này).
+ Giai đoạn 3: là giai đoạn xuất hiện các quan hệ pháp luật mà nội dung của nó là xuất hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể (cá nhân , tổ chức).
+ Giai đoạn 4: là giai đoạn thực hiện quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý. Các chủ thể bằng hành vi của mình thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý trong thực tiễn đời sống.
- Các yếu tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật:
+Yếu tố 1: ý thức cơ sở của cơ chế điều chỉnh pháp luật là quy phạm pháp luật. Đây chính là sự mô hình hóa các hành vi xử sự trong quan hệ xã hội.
+ Yếu tố 2: là các quyết định áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có tính cá biệt, cụ thể, nhằm đảm bảo đưa các yêu cầu của quy phạm pháp luật vào cuộc sống; hoặc bảo đảm sự xuất hiện các quan hệ pháp luật hoặc bảo đảm sự thực hiện quyền và nghĩa vụ.
+ Yếu tố 3: là các quan hệ pháp luật. Trên cơ sở quy phạm pháp luật và các quyết định áp dụng pháp luật được ban hành theo sáng kiến hoặc trên cơ sở xuất hiện các sự pháp lý khác, các quan hệ pháp luật phát sinh với nội dung là các quyền và nghĩa chủ thể.
+ Yếu tố 4: là các hành vi thực tế của các chủ thể quan hệ pháp luật thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
Như vậy, trên cơ sở pháp lý của cơ chế điều chỉnh pháp luật là quy phạm pháp luật. Chính các quy phạm pháp luât tạo nên mô hình, khuôn mẫu cho hành vi của các chủ thể( cá nhân, tổ chức, cơ quan).
Trong nhiều trường hợp quy phạm pháp luật không thể tự thân đi vào cuộc sống nếu không có hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan có thẩm quyền. Nếu cơ chế điều chỉnh pháp luật có yếu tố quyết định áp dụng pháp luật: cơ chế điều chỉnh pháp luật phức tạp. Cũng có trường hợp quy phạm pháp luật được thực hiện 1 cách trực tiếp bởi các chủ thể mà không cần trải qua giai đoạn áp dụng pháp luật, trong trường hợp này ta có cơ chế điều chỉnh pháp luật đơn giản.
Ví dụ: chủ thể tuân thủ đúng những quy tắc hành vi chứa đựng trong pháp luật: làm việc phải làm, không làm việc bị cấm.
Các quy phạm pháp luật và các quyết định áp dụng pháp luật được ban hành kéo theo sự xuất hiện của quan hệ pháp luật. Quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý của quan hệ xã hội được quy phạm pháp luật điều chỉnh. Sự xuất hiện, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật gắn liền với sự kiện pháp lý tức là những hoàn cảnh, điều kiện của đời sống thực tế quy định trong phần giả định của quy phạm pháp luật. Quan hệ pháp luật với nội dung là quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia chính là phương tiện để thực hiện quy phạm pháp luật. Và cuối cùng thông qua hành vi thực hiện quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể mà quy phạm pháp luật được thực hiện trong cuộc sống.