Thiên Môn Công Tử

1.8K 13 2
                                    

Thiên Môn Công Tử

I. Xà hoạ

“Nhân chi sơ, tính bản thiện, tính tương cận, tập tương viễn; cẩu bất giáo, tính nãi thiên; giáo chi đạo, quý dĩ truyền…”. Cùng với tiếng đọc oang oang của lũ trẻ, một ngày mới của Lạc Văn Giai lại bắt đầu.

Nơi đây là một ngôi làng nhỏ, cảnh sắc tươi đẹp bên ngoài thành Dương Châu, phía trước thôn là dòng nước nhỏ róc rách có cây cầu bắc ngang, sau thôn là núi non bao bọc, phong cảnh nên thơ, tiếng tăm vang khắp xa gần. Người trong thôn hầu hết đều mang họ Lạc, vì thế mà được gọi là Lạc gia trang. Lạc Văn Giai là tú tài duy nhất trong thôn, tổ tiên xưa kia cũng là quan trong kinh thành cáo lão về quê, chỉ tiếc là đến đời cha của Lạc Văn Giai vì mê đánh bạc không những bán sạch gia tài còn bị người ta thúc nợ đến mức phải treo cổ tự tử, Lạc gia từ đó bắt đầu lụi bại. May mà Lạc Văn Giai có một người mẹ hiểu biết, cần cù lương thiện, quản giáo nhi tử một khắc không rời, không những một minh nuôi con khôn lớn, còn cho gã đến trường tư ở thôn bên học hành, cuối cùng cũng nuôi dạy Văn Giai thành tú tài duy nhất trong thôn. Được mẫu thân quản giáo nghiêm khắc, từ nhỏ Lạc Văn Giai đã lập chí muốn thi khoa cử để lập thân, học hành thành tài rồi ra làm quan giống tổ tiên ngõ hầu chấn hưng gia tộc. Để chia sẻ bớt gánh nặng cho mẫu thân, ngoài thời gian khổ học chuẩn bị cho khoa cử, Lạc Văn Giai còn mượn từ đường trong thôn mở trường học tư, một mặt dạy cho lũ trẻ trong thôn biết chữ, mặt khác cũng kiếm thêm được chút tiền trang trải trong nhà.

Tiếng vó ngựa ngoài cửa sổ thu hút ánh mắt tò mò của lũ trẻ, tiếng đọc sách bất giác nhỏ hẳn đi. Lạc Văn Giai đưa mắt theo hướng âm thanh phát ra, liền thấy hai vị công tử con nhà giàu mặc áo gấm, cưỡi ngựa chầm chậm đi qua cửa sổ, ngoài ra còn có mấy tên tuỳ tùng tiền hô hậu ủng nữa. Hai người chuyện trò đang rất hứng khởi, một vị công tử nho nhã mặc áo trắng, cưỡi ngựa trắng cò không ngừng dùng roi ngựa chỉ ra xung quanh, thần thái hết sức tiêu sái ung dung.

Lạc Văn Giai nhận ra vị bạch y công tử đó tên là Nam Cung Phóng, là tam công tử của Nam Cung thế gia nức tiếng trong thành Dương Châu. Năm đó phụ thân gã thua bạc đem cả gia sản bán cho Nam Cung thế gia, vì thế hầu hết ruộng vườn ở Lạc gia trang này đều thuộc về họ cả, chỉ còn mấy miếng đất làm nghĩa địa của tổ tông là vẫn còn trong tay trưởng họ. Gần đây, nghe nói Nam Cung thế gia muốn lấy lại đất ruộng trong Lạc gia trang để chuẩn bị xây dựng sơn trang nghỉ mát và trường đua ngựa. Tin tức đó khiến mọi người trong thôn đều hoang mang lo sợ, ai nấy đều hy vọng trưởng họ Lạc Tông Hàn có thể ngăn được việc này.

“Không nhìn nữa, tiếp tục đọc sách!” Lạc Văn Giai vỗ vỗ lên bàn cảnh cáo lũ trẻ. Gã chẳng hề có chút hứng thú gì với đám công tử ca nhi ấy, chỉ muốn khổ học thi thư, sớm ngày thi khoa cử đạt công danh.

Đến khi mặt trời ngả về Tây, Lạc Văn Giai mới thu dọn văn phòng tứ bảo, cho lũ trẻ nghỉ học. Lũ trẻ chạy ùa ra khỏi từ đường như ong vỡ tổ, vội vội vàng vàng trở về nhà, gian từ đường bỗng trở nên yên tĩnh. Lạc Văn Giai sắp xếp lại bàn ghế cho ngay ngắn xong, cũng dọn dẹp sách vở chuẩn bị ra về. Vừa ra đến cửa, liền thấy một thiếu nữ áo xanh xách giỏ tre đợi ngoài cửa. Nàng trông  thấy Lạc Văn Giai, liền hơi ngượng ngùng, nhưng vẫn hân hoan bước đến.

“Hân Di!” Trong mắt Lạc Văn Giai thoáng lộ vẻ khác thường, vội chắp tay thi lễ.

“Văn Giai ca!” Thiếu nữ đến trước mặt gã, cúi đầu đưa cái giỏ trong tay ra nói: “Đây là hoa quả nhà muội mới hái hôm nay, mời huynh và bá mẫu nếm thử.”

Lạc Văn Giai vội đỡ lấy giỏ hoa quả, định nói mấy câu cảm ơn nhưng lại chẳng biết nên mở miệng thế nào, cứ lúng ba lúng ngây người ra đó. Cô nương kia len lén ngước nhìn gương mặt lung túng của gã , không khỏi nhoẻn miệng tủm tỉm cười, xua tay nói: “Huynh về sớm đi, kẻo bá mẫu lo lắng.”

“Vâng!” Lạc Văn Giai vội trả lời. Thiếu nữ cúi đầu chờ thêm chút nữa mới nói nhỏ “Muội về trước đây!”

“Ơ kìa!” Lạc Văn Giai ấp úng, đưa mắt nhìn nàng đi xa dần. Chỉ thấy đối phương đi được độ chục bước, liền ngoảnh đầu lại vẫy tay chào, nét mặt ngượng ngùng e thẹn. Lạc Văn Giai bần thần cả người ra, không khỏi đờ ra nhìn như si như dại. Tới khi bóng dáng thiếu nữ khuất hẳn, gã mới lưu luyến thu ánh mắt lại, xách giỏ táo đỏ tươi đó đưa lên mũi khe khẽ hít nhẹ, mà không nỡ cắn một miếng.

Di nhi! Lạc Văn Giai thầm gọi nhũ danh nàng thiếu nữ, chỉ thấy một cảm giác ngọt ngào dâng lên trong dạ. Thiếu nữ ấy là thiên kim của nhà giàu nhất thôn Triệu Phú Quý. Triệu Phú Quý là người nơi khác đến, năm đó vì muốn tìm chỗ dựa, lão từng hứa với cha của Lạc Văn Giai sẽ gả con gái vào nhà họ Lạc. Sau này Lạc gia lụn bại, Triệu Phú Quý đã có ý từ hôn, có điều đôi trẻ là cặp thanh mai trúc mã lớn lên bên nhau, từ lâu đã không thể tách rời nhau ra được. Triệu Phú Quý suýt vì thế mà trở mặt với Lạc gia, nhưng về sau thấy Lạc Văn Giai cần cù hiếu học, hoàn toàn khác với phụ thân gã, lại còn trẻ đã thi đỗ tú tài, tiền đồ rộng mở không thể đo đếm. Triệu Phú Quý khi đấy mới mắt nhắm mắt mở làm ngơ cho hai người qua lại, tạm thời ngầm thừa nhận hôn ước kia.

Theo lễ giáo, nam nữ có hôn ước khi chưa thành hôn thì không được gặp nhau, có điều đây là một thôn xóm nhỏ xa xôi, các lễ giáo đều hết sức giản tiện đi, vậy nên Lạc Văn Giai và Triệu Hân Di mới có cơ hội thường xuyên gặp nhau. Nhưng tuổi tác hai người lớn dần lên, tờ hôn ước mười bảy năm trước, ngược lại đã khiến hai người không thể tự nhiên vô tư như thủa còn thơ vô ưu vô lự.

Lạc Văn Giai ngây ngây ngốc ngốc nhìn theo hướng đi của Triệu Hân Di, hồi lâu sau mới lưu luyến thu hồi ánh mắt, đưa giỏ táo lên ngửi một hơi rồi mới chầm chậm đi về nhà.

Triệu Hân Di vòng qua ngã rẽ nhưng không vội đi xa mà nấp vào gốc cây nhìn lén. Thấy Lạc Văn Giai bần thần ôm giỏ táo về nhà, nàng không nhịn được tủm tỉm cười, khẽ mắng một câu “Đồ ngốc!” rồi vung vẩy bím tóc quay người bước đi.

Vừa quay người lại, bỗng có tiếng ngựa hý vang khiến Triệu Hân Di giật thót mình, chỉ thấy một con tuấn mã trắng muốt như dải lụa dựng đứng hai vó trước mặt mình, suýt chút nữa thì hất văng người ngồi trên lưng ngựa xuống. Người cưỡi ngựa kia đùng đùng nổi giận, đang định mở miệng quát mắng, nhưng khi nhìn rõ dung nhan của Triệu Hân Di thì lại bất giác ngẩn người tại chỗ.

Triệu Hân Di mất một lúc mới hoàn hồn, vừa nãy nàng mải nhìn lén Lạc Văn Giai, không hề để ý đến tiếng vó ngựa ở sau lưng đang phi tới, quay người lại suýt chút nữa thì người ngựa va vào nhau. Nàng đang định xin lỗi, bỗng phát hiện người trên lưng ngựa đang nhìn mình chăm chăm. Mặc dù trong thôn cũng có không ít gã trẻ tuổi cười cười cợt cợt lén nhìn nàng, nhưng ánh mắt nhìn trắng trợn không hề kiêng dè thế này thì Triệu Hân Di mới gặp lần đầu tiên, trong lòng không khỏi sợ hãi. Nàng chẳng kịp nói lời xin lỗi, đã vội cúi đầu bước đi. Trong lúc vội vã cũng chẳng kịp nhìn xem mặt mũi người đó như thế nào, chỉ lờ mờ thoáng thấy đó là một vị công tử trẻ tuổi mặc đồ trắng như tuyết, dung mạo hình như cũng không khó coi lắm, nhưng ánh mắt thì hơi khiến người khác sợ hãi. Đối với Triệu Hân Di, hạng người ấy thuộc về một thế giới hoàn toàn khác, hoàn toàn không liên quan gì đến nàng cả. Thế nên khi về đến nhà, nàng đã quên hết chuyện vừa xảy ra trên đường.

“Đẹp! Đẹp quá!” Vị bạch y công tử cưỡi ngựa trắng nhìn theo bóng Triệu Hân Di đi xa dần, lẩm bẩm như thể đang tự nói với mình: “Không ngờ thôn làng hẻo lánh này cũng có một đoá u lan!”

“Tam công tử thật tinh tường!” Gã công tử áo gấm đi bên cạnh vội gật đầu phụ hoạ, “Dương Châu tuy là chốn phồn hoa đô hội giai nhân tấp nập, nhưng cũng rất ít khi thấy tuyệt thế mỹ nhân không nhuốm chút bụi hồng trần thế tục như vậy.”

Gã bạch y được gọi là “Tam công tử” kia chẳng không đáp lời đối phương, cứ dõi mắt nhìn theo hướng Triệu Hân Di vừa đi khuất, khe khẽ ngâm lên:

Sơn thôn có giai nhân, tuổi chưa tròn đôi tám

Mày như trăng núi xa, da như tuyết trắng

Đôi má xinh hồng hồng, mắt phượng ngầm chứa xuân

Môi mềm như hoa nở, bước chân rộ hoa sen

Tuấn mã gặp mỹ nữ, trù trừ không dám lên

Chim hồng thoáng lướt qua, cứ ngỡ tiên nữ giáng.

 

 “Tam công tử thật giỏi thơ phú!” Công tử áo gấm vỗ tay tán dương: “xuất khẩu thành chương, ba bước thành thơ. Thiết tưởng các bậc phong lưu tài tử thời xưa, chắc cũng chỉ được vậy mà thôi.”

“Đường công tử quá lời rồi!” Chỉ thấy vị công tử áo trắng kia xua tay nói, “Chỉ là hứng khởi nhất thời thôi. Bài thơ kém cỏi của tại hạ chỉ hình dung được một phần vạn sắc đẹp của nàng thiếu nữ kia! Chỉ tiếc là đến tên của nàng ấy chúng ta cũng không biết.”

Công tử áo gấm liền cười hì hì nói: “Vậy sao công tử còn không đuổi theo hỏi đi! Với thần thái phong lưu tuấn tú cùng sự bác học đa tài của Nam Cung thế gia tam công tử chẳng phải là dễ như trở bàn tay hay sao!”

“Chúng ta đang có việc gấp cần làm đó!” Nam Cung công tử tiếc nuối lắc đầu. “Phương viên mấy chục dặm quanh đây, chỉ còn lại mỗi Lạc gia trang này thôi, nếu như không lấy được thì Nam Cung Phóng ta thật vô tích sự!”

Đường công tử kia không cho là vậy: “Lần này chúng ta ra giá cao, lại thêm đích thân công tử xuất mã, dùng cả ân lẫn uy, ta không tin lão già Lạc Tông Hàn ấy lại không biết thức thời.”

Nam Cung Phóng lắc đầu: “Lạc Tông Hàn rất cứng đầu, sợ rằng lão sẽ không nghe.”

“Cứng đầu?” Đường công tử cười lạnh lùng. “Lẽ nào có thể cứng hơn Vô Ảnh Sưu Hồn thủ của công tử và ám khí độc môn của Đường Tiếu này?”

Gương mặt Nam Cung Phóng thoáng hiện lên nét cười chế giễu, nhưng chỉ thản nhiên nói: “Nam Cung thế gia là gia tộc có tiếng tăm địa vị ở Dương Châu, há có thể công khai cậy mạnh hiếp yếu, để để người đời cười chê? Cho dù vạn bất tắc dĩ phải dùng biện pháp mạnh thì tuyệt đối không thể đích thân ra tay được.”

Đường Tiếu tỏ vẻ coi chường, bĩu  môi nói: “Làm gì mà phiền phức như vậy? Chuyện này mà ở Tứ Xuyên nhà ta, kẻ nào dám cả gan khiến Đường Môn chúng ta không vừa lòng, trong vòng ba ngày nhất định sẽ chết không nhắm mắt.”

Nam Cung Phóng chỉ cười khẩy miệt thị bằng giọng mũi, không nói gì nữa. Rồi bỗng nhiên ghìm cương ngựa trước một căn tứ hợp viện tường đỏ ngói xanh, lấy roi ngựa chỉ: “Đến rồi!”

Khi Lạc Văn Giai về đến nhà, trời đã sẩm tối. Mẫu thân gã đang bận rộn trong bếp, trong nhà thơm phức mùi cơm canh. Lạc Văn Giai vội đưa giỏ hoa quả cho mẹ: “Mẹ! Hân Di gửi để mẹ nếm thử.”

Mẫu thân gã không nhận lấy, mà chỉ buồn bã thở dài: “Mẹ không ăn nổi.”

“Tại sao lại vậy?” Lạc Văn Giai thấy thần sắc của mẹ có gì đó khác lạ vội hỏi.

“Nhà ta gia cảnh bần hàn, nhưng cũng là thư hương thế gia. Lẽ nào con cứ cam tâm nhận đồ người ta cho mãi? Mặc dù con và Hân Di có hôn ước, nhưng nếu như con không thể thi đậu thành danh, thì làm sao đón nó về được? Cứ xem như Hân Di không quan tâm những điều đó, thì e rằng phụ thân nó cũng không đáp ứng đâu.”

“Mẹ dạy rất phải.” Lạc Văn Giai vội đáp, “Con nhất định sẽ nỗ lực học tập, sớm ngày thi đậu…”

Đúng là đồ vô dụng!” Mẫu thân gã vừa dọn cơm canh lên bàn, vừa nửa đùa nửa thật trách móc, “Tổ tiên nhà ta đời đời đều học hành đọc sách, không biết bao nhiêu người là tiến sĩ, giải nguyên, còn con, nếu cả cử nhân cũng không thi đỗ, thì còn mặt mũi nào nhìn người ta chứ?”

“Vâng, vâng, vâng!” Lạc Văn Giai vội cười xoà đáp, “Con nhất định sẽ khổ công học tập, giành lấy giải nguyên, để mẫu thân đại nhân được làm đại lão phu nhân!”

“Lẻo mép!” mẫu thân gã ngoài miệng thì trách mắng con, nhưng nét mặt lại đầy sự yêu thương. Bà nhanh nhẹn bày dọn cơm canh tươm tất mới cất tiếng gọi con trai, “Ăn cơm thôi, hôm nay trời lạnh đêm dài, con cũng đừng học khuya quá.”

Hai mẹ con cơm nước xong xuôi, Lạc Văn Giai đợi mẹ dọn dẹp xong, đi vào nghỉ ngơi, mới đi vào gian thư phòng khuất nẻo ở nhà sau khổ học. Tuy nhà họ Lạc gia đạo suy vi, ruộng vườn phải bán hết, nhưng dẫu sao trước kia tổ tiên cũng từng làm quan trong triều, căn nhà cũ tuy đã rách nát, nhưng rất rộng rãi, không những có bếp, thư phòng ở hậu viên, mà trong thư phòng còn có đủ các loại tàng thư sách vở. Nếu không phải vậy, sợ rằng Lạc Văn Giai chẳng có lấy cơ hội đọc sách nữa.

Trong ánh đèn dầu vàng vọt, Lạc Văn Giai lại bắt đầu một đêm khổ học. Vừa đọc xong quyển “Luận ngữ”, gã bỗng nhiên nghe thấy trong hậu viện vẳng ra tiếng “lục cục”, giống như có người vừa nhảy trên tường hậu viện xuống. Lạc Văn Giai vội cầm đèn đi ra kiểm tra, trong lòng lấy làm kỳ quái, căn nhà rách nát thế này, lẽ nào trộm cướp cũng ghé thăm hay sao?

Thấy đám cỏ dại ở chân bờ tường lay động, Lạc Văn Giai đưa đèn lên soi, bất giác giật nảy mình. Trong đám cỏ dại có một lão già toàn thân đầy máu, hai mắt nhắm nghiền đang nằm thở thoi thóp, hình như là đã hôn mê. Sau một thoáng kinh ngạc ban đầu, Lạc Văn Giai gọi nhỏ: “Lão bá, lão bá!”

Lão già trả lời một tiếng mơ hồ, nhưng không hề mở mắt ra. Lạc Văn Giai bản tính lương thiện, lấy lão già bị trọng thương, vội vực dậy chập choạng dìu vào thư phòng, đặt nằm lên cái ghế gã vẫn hay nằm nghỉ, đến lúc đó, gã mới nhìn kỹ diện mạo của lão già này. Chỉ thấy niên kỹ lão cũng không cao lắm, nhưng hai bên tóc mai đã bạc màu, tướng mạo khắc khổ từng trải, gương mặt gầy trơ xương, dù hai mắt nhắm nghiền, nhưng gương mặt ấy vẫn toát lên một vẻ cao siêu lạ thường. Thấy lão ta mặt trắng như tờ giấy, hơi thở yếu ớt, Lạc Văn Giai vội hỏi: “Lão bá, ông bị thương ở đâu? Để tôi lập tức đi mời đại phu nhé!”

Nói đoạn, y đang định quay người đi thì bị lão già kia nắm cổ tay kéo lại. Bàn tay lão già mạnh mẽ như vuốt ưng, tuy lão đang bị trong thương, nhưng Lạc Văn Giai cũng không thể giằng ra nổi. Chỉ thấy lão ta cố gắng chỉ vào trước ngực mình nói: “Ta…có thuốc ở đây!”

Lạc Văn Giai vội mở vạt áo lão ra, quả nhiên thấy có hai bình thuốc. Gã cầm cả hai lọ lên  hỏi: “Dùng như thế nào?”

“Thuốc viên uống, thuốc bột bôi ngoài!” Lão già cố hết sức nói được vài lời đã mệt đến thở không ra hơi.

Sau khi y lời cho lão già uống thuốc, Lạc Văn Giai lại xé mảnh áo ngực đẫm máu của lão ra, ai ngờ trong đó máu thịt be bét, lão ta đau quá kêu lên một tiếng rồi lập tức ngất đi. Lạc Văn Giai vội lóng ngóng lấy lọ thuốc bột rắc vào miệng vết thương, sau đó xé vạt áo băng lại. Xong xuôi đâu đó, gã mới để ý thấy trong áo lão già còn một cái bọc nhỏ buộc sát vào ngực, đã thấm đẫm máu me. Gã sợ nó dính vào vết thương, bèn nhẹ nhàng gỡ ra. Cái gói này không nặng lắm, vuông vuông dài dài như một quyển sách. Lạc Văn Giai trời sinh đã mê sách, thấy lão già vẫn hôn mê chưa tỉnh, liền không sao kìm được tò mò mà mở cái bọc đó ra xem. Quả nhiên bên trong đúng là một cuốn sách da dê dày khoảng nửa tấc, nhìn bề ngoài thì có vẻ như đã rất lâu đời, ngoài bìa còn viết bốn chữ theo kiểu chữ Triện cổ rất hiếm khi gặp – Thiên Môn Mật Điển!

Lạc Văn Giai từ nhỏ đã đọc qua rất nhiều sách, các loại sách của Bách gia chư tử, các thứ dã sử truyền kỳ cũng đều biết hết, nhưng xưa nay chưa bao giờ nghe đến cuốn sách nào như thế này cả. Trong lòng lấy làm kỳ lạ, gã lại không kìm được tiện tay lật trang đầu tiên ra xem, trang đầu này là lời dẫn, chỉ vẻn vẹn có một câu và cũng được viết bằng chữ Triện cổ. Lạc Văn Giai đọc khẽ: “Con người, không có nanh vuốt của loài lang sói; càng không có sức mạnh của giống hùm beo, nhưng lại có thể bắt sói, trói hùm, săn voi, dạy hổ; không có nguyên nhân nào khác, chỉ bởi có trí tuệ thôi vậy.”

“Đây là thứ gì vậy?” Lạc Văn Giai ngờ vực tự hỏi chính mình, đang định mở sang trang thứ hai thì thấy trang sách đã dính chặt lại với nhau không tách ra được, gã đang định nhìn kỹ xem tại sao, bỗng thấy sau gáy cứng đờ, cổ họng đã bị một bàn tay như vuốt ưng bóp chặt, kế đó trước mắt loé lên một đạo hàn quang, một thanh truỷ thủ đã đưa lên trước mắt, kế đó từ phía sau vang lên một giọng lạnh lùng: “Dám tự ý xem mật điển của bản môn, phải khoét bỏ đôi mắt.”

“Tôi không có!” Lạc Văn Giai run sợ đánh rơi cuốn sách, đến lúc đó mới phát hiện lão già nằm trên ghế đã bước đến sau lưng, đang cầm truỷ thủ đặt lên mắt gã. Gã vội giải thích: “Lão bá tha mạng! Tôi…tôi không biết…”

“Ngươi xem tới đâu rồi?” Lão già quát hỏi.

“Tôi chưa xem được gì, chỉ đọc được câu ở trang đầu tiên thôi!” Lạc Văn Giai vội trả lời.

“Đã đọc rồi, thì phải lấy mắt của ngươi” Lão già nói đoạn, bàn tay bóp mạng, đang định ra tay thì bỗng nghe bên ngoài cửa sổ vẳng lại tiếng cành cây khô gãy, âm thanh đó dường như không lọt được vào tai Lạc Văn Giai, nhưng với lão thì lại như sấm động. Lão thoáng ngẩn người ra, bất ngờ xoay người Lạc Văn Giai lại, đồng thời đảo ngược mũi truỷ thủ, nhét chuôi dao vào tay Lạc Văn Giai, đoạn cầm cổ tay gã kéo thẳng vào ngực mình, mũi dao liền đâm đúng vào chỗ vết thương cũ của lão.

Biến cố xảy ra quá bất ngờ, tới khi Lạc Văn Giai định thần lại, mới phát hiện mình đang cầm truỷ thủ đâm vào ngực lão già nọ, kế đó liền thấy lão từ từ đổ vật ra đằng sau. Lạc Văn Giai tay cầm ngọn truỷ thủ dính đầy máu, sợ đến bần thần cả người ra tại chỗ, miệng không ngừng lắp bắp: “Tôi… tôi không cố ý!”

Cửa sổ bất ngờ mở ra không một tiếng động, hai tên hắc y nhân cầm kiếm tung mình lướt vào. Sau khi nhìn rõ tình hình thư phòng, cả hai đều biến sắc vội đưa kiếm lên thủ thế, nhìn chằm chằm vào Lạc Văn Giai quát hỏi: “Ngươi đã giết lão?”

“Không phải tôi!” Lạc Văn Giai vội vứt mũi truỷ thủ trong tay đi, hoang mang chỉ vào lão già nói: “Là lão…”

Hai tên hắc y nhân nhìn lão già đã tắt thở nằm dưới đất, rồi lại nhìn sang phía Lạc Văn Giai đang luống ca luống cuống, bất giác đưa mắt nhìn nhau ra hiệu, đoạn lạnh lùng hỏi: “Ngươi đã giết lão, vậy thì món đồ kia nhất định đã lọt vào tay ngươi. Giao ra mau, nếu không…!”

“Đồ nào cơ?” Lạc Văn Giai hoang mang hỏi lại.

“Hừ! Quả nhiên không hổ là người của Thiên Môn, đóng giả như thật! Đã vậy thì bọn ta đành mạo phạm vậy!” Một tên hắc y nhân lạnh lùng nói, trường kiếm rung lên, tạo thành vô số đoá kiếm hoa tua tủa, đột nhiên ép về phía Lạc Văn Giai.

Lạc Văn Giai vội cuống cuồng lùi về sau né tránh, nhưng vấp phải cái ghế dài đằng sau, ngã ngửa ra đất, tuy ngã đến bò lăn bò càng, nhưng vừa khéo lại tránh được đoá hoa kiếm đang ập tới trước mặt. Tên hắc y nhân thấy thế thì sinh ngờ vực thu kiếm lại, thầm nghĩ, một kiếm này vốn là hư chiêu, sao có thể một chiêu đắc thủ như vậy được?

“Ở đây!” Tên hắc y còn lại đột nhiên phát hiện ra cuốn sách da dê rơi trên đất, cặp mắt lập tức sáng bừng lên chồm tới, đang định với tay nhặt lên, bỗng thấy bên cạnh có đạo hàn quang loé lên, lưỡi kiếm của tên đồng đảng đã đâm tới. Y không kịp phòng bị nên trúng ngay một kiếm vào mạng sườn, buộc lòng phải ôm vết thương lùi lại mấy bước, chỉ kiếm vào bạn đồng hành phẫn nộ quát: “Ngươi…”

Chỉ thấy tên hắc y thừa cơ đánh lén điềm nhiên cười cười bảo: “Thiên Môn mật điển, người người đều muốn, ngươi chớ nên trách ta.” Nói đoạn đâm thêm một kiếm nữa giết chết đối phương. Sau đó, y quay về phía Lạc Văn Giai, thấy gã vừa lồm cồm đứng dậy, bèn vừa ngấm ngầm giới bị, vừa với tay nhặt quyển sách da dê dưới đất. Đúng lúc đó lão già nằm bất động từ nãy bỗng dưng bật dậy, chặt thẳng một quyền vào yết hầu y. Tên hắc y nhân chỉ chú ý vào Lạc Văn Giai, căn bản không thể ngờ lão già đã chết kia lại sống dậy, lập tức bị chặt trúng yết hầu, chỉ kịp kêu lên một tiếng đau đớn, rồi trợn ngược mắt từ từ đổ vật người ra đất.

Lão già ra tay làm động đến vết thương, máu tươi lại phun ra, chỉ trong chớp mắt đã ướt đẫm cả vạt áo trước ngực.Lão lại nằm liệt dưới đất thở hồng hộc, một lúc sau mới ngoắc ngoắc tay với Lạc Văn Giai bấy giờ vẫn đứng ngây ra như phỗng đá: “Ngươi đến đây!”

“Không!” Lạc Văn Giai sợ hãi lùi lại mấy bước.

“Ngươi yên tâm, ta không hại ngươi đâu.” lão già dịu giọng nói: “Vừa rồi là ngươi…”

“Không phải tôi!” Lạc Văn Giai vội phân trần: “Tôi không hiểu sao mình lại cầm truỷ thủ, lại còn đâm trúng ngực của tiền bối nữa.”

“Không liên quan đến ngươi.” Lão già gắng sức nói: “Nếu không phải lão phu nghĩ ra kế ấy trong lúc nguy cấp, làm sao có thể gạt được hai tên này chứ?”

“Vết thương của ông có nghiêm trọng không?” Lạc Văn Giai vội hỏi lại.

“Bồi thêm một dao vào vết thương cũ, chỉ là mất thêm chút máu, chẳng có gì cả.” Lão già nói đoạn, nhặt cuốn sách da dê lên nhét vào bọc, rồi lại ngoắc tay với Lạc Văn Giai nói: “Vừa rồi ngươi đã cứu ta, ta cũng không làm khó ngươi nữa. Nếu như sau này có cơ hội gặp lại, ta nhất định sẽ báo đáp ơn cứu mạng của ngươi. Nhưng trước tiên ngươi hãy kéo hai cái xác này đi chôn đã.”

Lạc Văn Giai vội xua tay: “Không được, không được, xảy ra án mạng, đương nhiên phải báo quan phủ!”

“Báo quan!” lão già cười lạnh lùng “Lão phu phủi tay xong là đi, quan sai đến ngươi giải thích thế nào về chuyện tối nay?”

“Cứ theo sự thật mà nói!”

“Ai sẽ tin đây?”

Lạc Văn Giai tắc tị, chuyện đêm nay thật quá ly kỳ, nếu không tận mắt chứng kiến, thì quyết chẳng thể nào tin nổi. Nhưng nếu muốn gã mang hai gã hắc y nhân kia đi chôn, coi như chẳng xảy ra chuyện gì, thì gã không thể làm nổi. Trầm ngâm giây lát, Lạc Văn Giai hiên ngang nói: “Quân tử hành sự, chỉ mong không hổ với lòng. Tôi sẽ y theo sự thật mà báo chuyện đêm nay với quan phủ, người ta tin hay không tin cũng không quan trọng.”

“Cổ hủ! Ngu dốt!” Lão già kia không nhịn được lớn tiếng mắng quát: “Người có biết rằng nếu chuyện tối nay mà truyền ra ngoài sẽ mang đến cho ngươi bao nhiêu phiền phức không? Rồi lại mang cho lão phu bao nhiêu phiền phức không?”

Lạc Văn Giai do dự một lúc rồi vẫn lắc đầu: “Dẫu sao cũng là hai mạng người, ta không thể lừa dối lương tâm mình mang họ đi chôn như vậy được.”

“Thư sinh vô dụng! Thư sinh vô dụng a!” Lão già kia luôn miệng than thở, rồi lấy trong gói ra một bình sứ nhỏ, lẩm bẩm nói, “Xem ra đành phải dùng đến thần dược vô giá của lão phu thôi.”

Nói đoạn, lão đổ thuốc bột trong bình sứ vào vết thương trên hai cái xác, chỉ nghe tiếng “xì xì” vang lên, rồi hai cái xác dần biến mất, cuối cùng chỉ còn lại hai bộ đồ màu đen. Lạc Văn Giai thấy vậy thì tròn mắt há hốc miệng ra, nghi hoặc chẳng hay có phải mình đang nằm mơ hay không nữa.

Cuối cùng lão già kia vơ lấy hai bộ quần áo đen và hai thanh kiếm gói lại quay người đi ra cửa, đồng thời ngoảng lại cười lạnh lùng: “Bây giờ không còn một chút dấu vết, ta xem ngươi báo quan như thế nào?”

Lạc Văn Giai nhìn lão lảo đảo đi ra cửa, bất chợt sực nhớ ra đến tên của lão già kia mình còn chưa biết, vội chạy ra khỏi thư phòng hỏi: “Không biết phải xưng hô với lão bá như thế nào?”

“Sao cơ? Ngươi còn muốn báo tên lão phu với quan phủ nữa chăng?” Sắc mặt lão già trầm xuống.

Lạc Văn Giai thở dài than, “Lão trượng hiểu lầm rồi. Sự việc đêm nay đã không còn vật chứng, tôi nói ra lấy ai tin đây? Hôm nay khéo gặp lão bá xem như là có duyên, sau này biết đâu sẽ gặp lại, nên tôi mới không nhịn được mà hỏi đó thôi.”

Lão già kia cười khà khà đáp: “Ngươi thân ở sơn thôn, tâm ở quan trường, còn lão phu thì quanh năm độc lai độc vãng trên chốn giang hồ, từ nay về sau sợ rằng không còn có cơ hội gặp lại. Nhưng thấy ngươi thành khẩn như vậy, lão phu cũng không ngại gì mà nói ngươi biết, lão phu họ Vân, người khác vẫn gọi ta một tiếng Vân gia.”

Vân gia? Lạc Văn Giai thầm nhẩm lại trong lòng, vẫn muốn hỏi thêm nữa, nhưng lão gì đã loạng choạng đi ra khỏi cổng. Nhìn sắc trời, màn đêm cũng vừa buông xuống. Chỉ thấy trăng sau vẫn như thường, xung quanh chỉ ngoài tiếng lũ côn trùng rỉ rả, thì chỉ còn những trận gió nhè nhẹ đem theo chút hơi lành lạnh. Cả hai tên hắc y và lão già tóc bạc đều biến mất tăm mất tích. Lạc Văn Giai đứng dụi mắt cứ ngỡ là mình còn chưa tỉnh mộng.

“Cheng, cheng, cheng!” Phía từ đường bỗng vẳng lại mấy tiếng cồng gấp gáp, âm thanh vang lên trong đêm hết sức bất ngờ. Tiếng cồng đó là hiệu lệnh triệu tập những người trong họ khi có việc gấp, chỉ khi xảy ra những chuyện trọng đại mới dụng đến. Lạc Văn Giai lớn như vậy mà cũng chỉ nghe thấy một lần khi thôn trang có lũ tặc phỉ đến cướp.

“Mẹ, trong tộc có chuyện lớn, con phải đi xem xem!” Lạc Văn Giai vội chạy đến bên cửa phòng mẫu thân báo. Liền nghe mẹ gã trong nhà dặn: “Con đi xem có chuyện gì thì được, nhưng phải nhớ, tất cả phải do các vị trưởng bối làm chủ, con nhất thiết không được tự tiện ra mặt.”

“Con nhớ rồi!” Lạc Văn Giai đáp lời, rồi vội vã chạy về phía từ đường. Tuy Lạc Văn Giai chưa đầy hai mươi tuổi, nhưng mọi người trong tộc đều coi gã là người trưởng thành, chỉ vì gã là tú tài duy nhất trong cả tông tộc, vậy nên, gã cũng được tham gia vào các việc chung trong họ, gã cũng lấy làm tự hào về điều đó.

Vội vội vàng vàng chạy đến từ đường, thì thấy ở đó đã có vài người đợi sẵn, ai nấy đều hết sức bất ngờ trước hiệu lệnh triệu tập của trưởng họ, vừa chào hỏi lẫn nhau vừa đoán già đoán non, nhưng không người nào có đáp án chính xác cả.

Sau khi mọi người trong họ đến gần đông đủ, mới thấy trưởng họ Lạc Tông Hàn cùng hai người con trai sải bước đi đến. Dưới ánh sáng vàng vọt của đèn đuốc, khuôn mặt ông trưởng họ xanh xám, hàm dưới có vẻ run run, trong ánh mắt thấp thoáng một tia lạnh lùng quyết liệt.

“Thúc công, nửa đêm canh ba triệu tập chúng ta đến đây rốt cuộc là có chuyện gì vậy?” Có người lớn tiếng chất vấn.

Lạc Tông Hàn ra hiệu cho mọi người yên lặng, đợi cho tất cả dần lắng xuống, lão mới đảo mắt nhìn quanh nói: “Hôm nay, tam công tử của Nam Cung thế gia ở Dương Châu đã đích thân đến đây, ra giá gấp ba lần muốn chúng ta chuyển đi, nhường lại tất cả đất đai ở Lạc gia trang, mọi người nói xem phải làm như thế nào?”

“Như thế sao được?” có người lập tức cao giọng phản đối, “Lạc gia chúng ta sinh sống ở đây đã mười mấy đời, cả phần mộ của tổ tiên cũng đều được chôn cất tại đây, làm sao có thể dời đi?”

“Đúng đấy!” Chúng nhân đều nhao nhao phụ hoạ, “Trước nay mới chỉ nghe nói người sống chuyển nhà, chứ có bao giờ thấy mồ mả tổ tiên cũng có thể chuyển đi chỗ khác đâu!”

“Không chuyển! Tuyệt đối không chuyển!” Thái độ của mọi người kiên quyết dị thường.

Lạc Tông Hàn đợi mọi người yên lặng một chút, mới lên tiếng: “Hôm nay Nam Cung Phóng đã ra thông điệp cuối cùng với chúng ta, nếu chúng ta không chuyển, bắt đầu từ đêm nay, mỗi ngày Lạc gia trang có một người chết . Ta vốn nghĩ là hắn chỉ hù doạ, ai ngờ tối nay khi trời vừa tối, quả nhiên trong thôn có người chết bất đắc kỳ tử, vây nên mới phải lập tức mời mọi người đến đây để bàn chuyện.” Nói đoạn Lạc Tông Hàn quay người lại vẫy tay ra hiệu nói: “Khiêng ra đây!”

Hai người thanh niên khiêng ra một cái cáng, chỉ thấy trên cáng phủ tấm vải trắng, dưới lớp vải lờ mờ hiện ra một dáng người gầy còm. Đám người trong họ kinh hãi nhìn một người chầm chậm nhấc tấm vải trắng đó lên, lộ ra xác của một lão bà bên dưới. Mọi người nhìn rõ thi thể ấy, tuy trong lòng cũng có chút xót thương, nhưng ai nấy đều ngấm ngầm thở phào một tiếng. Người chết là một lão bà neo đơn ở nơi khác lưu lạc đến Lạc gia trang, tự xưng nhà chồng họ Mai, nên mọi người thường gọi là Mai bà bà. Kỳ thực bà ta vốn không có quan hệ gì lớn đối với Lạc gia trang, mấy năm trước lưu lạc tới đây, chỉ vì người trong thôn tính tình thuần phác, tâm địa lương thiện, thường thường cho bà ta một hai bữa cơm, nên liền ở lại luôn trong một nhôi nhà cỏ bỏ hoang. Chẳng ngờ đêm nay lại vì Lạc gia trang mà gặp nạn diệt thân.

“Ta đã nhờ đại phu kiểm tra xác Mai bà bà,” Lạc Tông Hàn bình tĩnh nói với mọi người: “Nhưng lại không phát hiện ra bất kỳ thương tích nào, cũng không phát hiện ra dấu hiệu trúng độc, chết rất là kỳ quặc, dù có báo quan chỉ e cũng chỉ coi là tuổi già suy kiệt, đến tuổi quy tiên. Có điều, ta không tin lại có chuyện trùng hợp đến vậy, xem chừng Nam Cung Phóng đã ra tay giết một người không liên quan trước để cảnh báo, nếu chúng ta vẫn kiên trì, rất có thể người kế tiếp sẽ là người của Lạc gia đó.”

Chúng nhân đưa mắt nhìn nhau, trong từ đường bỗng nhiên trở nên yên lặng khác thường, chợt một thanh niên giơ tay lên nói: “Nếu đúng là Nam Cung Phóng làm việc đó, chúng ta cũng tuyệt đối không thể lùi bước! Không thể để người khác ngồi lên đầu chúng ta được!”

Tiếng hô ấy đã được đám trẻ tuổi trong họ nhao nhao phụ hoạ. Trong mắt trưởng họ Lạc Tông Hàn ánh lên vẻ bằng lòng, đột nhiên hét lớn: “Mang đao của ta ra đây!”

Hai người con trai lão lập tức khiêng ra một cây cửu hoàn đại đao, Lạc Tông Hàn dùng hai tay nhấc lên, vung vẩy múa mấy đường, chín chiếc vòng thép gắn trên sống đao kêu “keng keng”, thanh thế cũng kinh người, khiến chúng nhân ai nấy đều đồng thanh cổ vũ hô “hay hay”. Lạc Tông Hàn chống cây đại đao xuống, hiên ngang nói: “Từ ngày hôm nay, tất cả đàn ông trưởng thành trong Lạc gia đều phải tự trang bị vũ khí, tổ chức thành đội bảo vệ thôn, thay nhau tuần tra cảnh giới, bảo vệ an toàn cho mọi người. Nếu như Nam Cung Phóng cả gan dám giết người trong thôn, chúng ta sẽ liều mạng cùng hắn!”

Ai nấy đều đồng thanh khen phải. Thời buổi dân phong chuộng võ, trong Lạc gia trang cũng có khá nhiều thanh niên học được vài đường võ nghệ thô thiển, đặc biệt là trưởng họ Lạc Tông Hàn, thời trẻ cũng từng đi làm bảo tiêu mấy năm. Có lão đứng ra, chúng nhân lập tức cảm thấy vững tâm bội phần, máu nóng sôi lên sùng sục.

“Được! Mỗi nhà mỗi hộ cử một nam đinh, lúc nào cũng phải mang theo binh khí bên mình, nghe thấy tiếng cồng lập tức chạy đến từ đường tập hợp, sẵn sàng ứng phó tất cả sự việc xảy ra. Thường ngày thì thay nhau tuần tra cảnh giới trong thôn.” Lạc Tông Hàn đang nói, đột nhiên ngoắc ngoắc tay bảo Lạc Văn Giai đang đứng ở đằng xa, “Văn Giai, cháu phụ trách ghi tên đăng ký cho mọi người. Nhà cháu ít nam đinh, cháu lại là tú tài, mấy chuyện múa đao đánh quyền đó không cần làm, chỉ cần phụ trách việc ghi chép lặt vặt là được.”

“Thúc công!” Lạc Văn Giai ấp a ấp úng nói, “Chuyện này, chuyện này… Cháu nghĩ tốt nhất là đi báo quan! Chúng ta tự tổ chức vũ trang, là phạm vào đại tội trong ‘Đại Minh Luật Lệnh’ đó.”

Lạc Tông Hàn ngẩn người, tức giận mắng: “Ngươi đúng thật là một tên tú tài, ngươi có biết rằng hạng võ lâm hào cường như Nam Cung thế gia, trong nhà ai ai cũng luyện võ, môn đồ, đệ tử không biết bao nhiêu, ‘Đại Minh Luật Lệnh’ sao không làm gì bọn họ? Thế gian này cá lớn nuốt cá bé, kẻ nào không có đao kiếm phòng thân thì chỉ có bị người ta hiếp đáp, mặc cho người ta chém giết thôi. Báo quan? Bây giờ kẻ làm quan nào không coi trọng tiền vàng hơn lý lẽ? Ta thấy ngươi đọc sách mà hồ đồ rồi, đến những chuyên nhân tình thế thái tối thiểu cũng không biết nữa. Được rồi! Việc này cũng không cần ngươi nữa, ngươi cứ an tâm đọc sách chuẩn bị thi cử đi, chỉ mong có ngày ngươi kiếm được nửa chức quan, Lạc gia chúng ta cũng không phải bị người ta ức hiếp nữa.”

Lạc Văn Giai còn muốn tranh luận, nhưng đã thấy Lạc Tông Hàn đang chỉ đạo mọi người đăng ký báo danh,  sắp xếp nhân thủ cảnh giới tuần tra, mọi người cũng chẳng thèm để ý đến một gã tú tài vô dụng như gã. Lạc Văn Giai đành rời khỏi từ đường, một mình về nhà. Từ đường cách nhà gã cùng khá xa, Lạc Văn Giai mượn ánh sáng vàng vọt từ ngọn đèn lồng, chân thấp chân cao đi về, vừa đi qua gốc cây đa trước cửa từ đường, bỗng nhiên không có gió mà chiếc đèn lồng tự nhiên phụt tắt, trước mắt tối om, liền ngay sau đó liền cảm thấy cơ thể mình bỗng nhiên bay bổng lên, cũng không rõ là đã bay lên bao nhiêu trượng, cuối cùng rơi xuống một chạc cây. Lạc Văn Giai dần dần thích ứng với bóng tối trước mắt, hoảng hồn nhìn xuống mới phát hiện mình đang ở trên cây đa, cách mặt đất đến vài trượng, không khỏi cả kinh thất sắc, vội luống cuống ôm chặt lấy cành cây, há miệng định kêu lên, thì bỗng thấy sau lưng tê rần một cái, trong miệng không thể phát ra được tiếng nào nữa.

“Mẹ nó! Không ngờ lão Lạc Tông Hàn này nói ngọt không nghe, sớm biết thế này ta đã giết hắn đầu tiên rồi!” Bên cạnh bỗng vang lên giọng nói khàn khàn bực bội, Lạc Văn Giai nhìn về phía ấy, mới nhận ra một  hán tử áo đen để tóc dài xoã vai, đang bám trên cây như con rắn, hai chân y quấn lấy một cành cây mọc nghiêng chĩa ra ngoài, ung dung quan sát tình hình trong từ đường. Tên hán tử đó thân thể gầy đét, sắc mặt đen xì, nếu không có đôi mắt sáng quắc kia, thì trong bóng tối cơ hồ khó mà nhìn thấy gương mặt của y được.

“Tam công tử đã dặn đi dặn lại, trước tiên không nên động đến Lạc Tông Hàn. Hắn ta là trưởng họ, chỉ cần hắn ta cúi đầu thì toàn bộ Lạc gia trang đã nằm trong tay chúng ta rồi. Tam công tử không muốn đối phó với từng nhà một, làm vậy rất phiền phức.” Phía sau lại vang lên một giọng nói ngọt ngào mềm mại, khiến gã nghe mà thấy vành tai ngưa ngứa, toàn thân muốn mềm nhũn ra. Lạc Văn Giai ngoảnh đầu lại nhìn, mới phát hiện một bạch y nữ tử đang lười biếng nằm trên một chạc ba, đôi chân thon dài mềm nhũn quấn vào cành cây, như thể một con rắn trắng đang nghỉ ngơi trên cây, còn cổ của gã thì đang bị đôi bàn tay như đoá hoa lan của ả ta xách ngược lên.

Hán tử áo đen cuộn người, nhẹ nhàng chuyển lên chạc ba, lạnh lùng lừ mắt nhìn Lạc Văn Giai, đoạn bất mãn cằn nhằn với nữ tử áo trắng: “Ngươi đưa hắn lên đây làm gì?”

Bạch y nữ tử cười khẩy đáp: “Ta định hỏi hắn xem, rốt cuộc Lạc Tông Hàn có kế hoạch gì?”

“Còn hỏi làm gì?” Hán tử áo đen không vừa ý “hừ” khẽ một tiếng, nói: “Bọn thôn phu ở chốn hoang dã này có kế hoạch gì uy hiếp được Hắc Bạch Song Xà chúng ta chứ?”

“Cẩn tắc vô áy náy!” Nữ tử áo trắng nói đoạn, quay đầu Lạc Văn Giai lại nhìn rồi cười hì hì nói, “Thì ra là một gã thư sinh anh tuấn, xem cách ăn mặc, chắc còn là tú tài nữa phải không? Nói cho tỷ tỷ biết, rốt cuộc Lạc Tông Hàn đang làm cái trò gì trong kia?” Nói đoạn tát vào miệng Lạc Văn Giai một cái, lúc đó Lạc Văn Giai mới thấy bớt bị bí hơi và dễ thở hơn rất nhiều, cổ họng cũng không còn bị chặn nói không ra tiếng nữa.

Nhờ ánh trăng mờ mờ, Lạc Văn Giai cũng miễn cưỡng nhìn rõ được gương mặt của nữ tử áo trắng ấy. Chỉ thấy ả ta niên kỉ dường như không lớn lắm, nhưng trong ánh mắt lại toát lên một vẻ phong trần từng trải. Một đôi lông mày lá liễu, mắt hạnh, mũi miệng đều rất xinh đẹp, hai bên má còn có một đôi lúm đồng tiền rất sâu. Nếu sắc mặt ả không trắng bệch đến độ khiến người ta phát sợ, thì cũng có thể coi là hạng mỹ nữ xinh đẹp như hoa. Tuy không biết tên họ, song qua lời đối thoại hồi nãy của hai người, Lạc Văn Giai cũng đoán ra được ả ta nhất định là Bạch Xà trong Hắc Bạch Song Xà. Lúc này thấy ả đang nửa như cười nửa như không cười nhìn chằm chằm vào mình, Lạc Văn Giai lập tức rướn cổ lên nói: “Không nói cho các người! Ngươi đừng hòng bức ép ta!”

“Ồ! Thì ra là một nam tử hán thà chết không khuất phục!” Ả ta bật cười khúc khích, khẽ nâng cằm Lạc Văn Giai lên cười hỏi: “Bao nhiêu tuổi rồi?”

“Không phải việc của ngươi!” Lạc Văn Giai đã vượt qua được nỗi sợ hãi ban đầu, dần dần lấy lại bình tĩnh, không ngừng vắt óc nghĩ kế thoát thân, nhưng thuỷ chung vẫn không nghĩ ra được cách nào, chỉ còn biết cố gắng kéo dài thời gian.

“Đừng phí sức nữa!” Gã hán tử áo đen trườn đến bên Lạc Văn Giai như con rắn, đưa tay lên, “Cho hắn một nhát là xong, đằng nào ngày mai chúng ta cũng phải giết người.”

“Đợi đã!” Nữ tử áo trắng nắm lấy tay tên áo đen kia ngăn lại nói: “Tam công tử dặn mỗi ngày chỉ được giết một người. Mục đích không phải là giết người, chủ yếu là bắt người trong Lạc gia trang phải chuyển đi.”

Tên hán tử áo đen lại hừ nhẹ một tiếng, lạnh lùng nói: “Hừm! Ta thấy con rắn dâm đãng ngươi lại nổi tà ý rồi phải không? Cẩn thận rồi làm hỏng việc chính, xem ngươi ăn nói thế nào với tam công tử?”

“Câm miệng!” Nữ tử áo trắng quát một tiếng rồi đẩy về phía tên hán tử áo đen một chưởng. Y vộixuất thủ đón chiêu, hai người một trắng một đen, xuất thủ nhanh như điện chớp, trong một thoáng nhìn tựa hai con rắn đang quần thảo trên tán cây. Sau mấy chiêu, hán tử áo đen nhảy đột nhiên nhảy ngược ra, bám trên một cành cây cách đó chừng trượng, hai mắt sáng quắc nhìn trừng trừng nữ tử áo trắng thủ thế, dường như có vẻ rất kiêng dè ả ta.

Tranh thủ một thoáng hai người kia phân tâm, Lạc Văn Giai bất ngờ hướng về phía từ đường kêu lớn: “Cứu mạng! Mau đến cứu ta với!”

Mọi người trong từ đường nghe thấy tiếng kêu cứu ùn ùn kéo ra, trong chớp mắt đã bao vây chặt cây đa cổ thụ. Tuy cây đa này đứng trơ trọi phía trước từ đường, nhưng thân cây to đến bốn người ôm không xuể, tán lại rộng như một chiếc ô khổng lồ, nên những người ở trên cây hoàn toàn khuất lấp, lại thêm trời đang tối nên mọi người nhất thời cũng không thể nhìn thấy chỗ Hắc Bạch Song Xà ẩn nấp.

“Mẹ nó! Chỉ hận không thể cho thằng tiểu tử này một nhát!” Hắc Xà chửi rủa, hai mắt nhìn Lạc Văn Giai như muốn toé lửa, khiến gã sợ quá vội nhắm tịt mắt lại, không dám kêu cứu tiếng nào nữa.

“Thôi! Chúng ta đi thì hơn, không nên đối mặt với bọn chúng.” Nói đoạn, nữ tử áo trắng lại véo vào má Lạc Văn Giai một cái rồi khẽ cười nói: “Lạc công tử đứng cho vững nhé, cẩn thận kẻo ngã xuống, hôm khác tỷ tỷ lại đến thăm ngươi.”

Nói rồi nữ tử áo trắng vung tay một cái, trên tay đã có thêm một sợi nhuyễn tiên dài mấy trượng, khẽ hất nhẹ một cái, đã quấn vào một cành cây ở phía xa, thân hình nhẹ nhàng đu lên, ung dung lướt đi mấy trượng giữa tán cây tựa như con linh xà, rồi ở trên không thu roi về, cong mình lại, mượn lực quán tính lăng không bay đi thêm mấy trượng nữa, nhẹ nhàng đáp xuống nóc từ đường.

Hắc Xà cũng làm y như vậy phóng về phía từ đường, có điều rõ ràng y không được nhẹ nhàng khinh khoái như Bạch Xà, chưa lướt tới từ đường, người y đã bắt đầu trầm xuống. Chỉ thấy y ở trên không trung vung roi về phía trước, vừa khéo quấn vào ngọn roi của Bạch Xà vung tới, mượn lực ấy mà vượt qua khoảng cách mười mấy trượng đáp xuống nóc từ đường.

Lạc Văn Giai há miệng trợn mắt nhìn cảnh tượng ấy, cơ hồ không dám tin là con người có thể linh hoạt như linh xà như vậy, giây lát sau gã mới lấy lại tinh thần, chỉ vào chỗ hai người kia vừa đáp xuống kêu lớn: “Bọn chúng ở kia , bọn chúng ở trên mái từ đường!”

Mọi người ở dưới gốc cây nghe thấy tiếng Lạc Văn Giai, vội nhìn về từ đường, nhưng sao còn thấy được bóng dáng Song Xà đâu nữa?

Chúng nhân mỗi người một tay một chân cứu Lạc Văn Giai trên cây xuống, nghe gã kể lại mọi chuyện vừa xảy ra, người nào người nấy đều bán tín bán nghi, từ thuở cha sinh mẹ đẻ tới giờ, họ cũng chưa từng nghe nói đến hạng kỳ nhân như Hắc Bạch Song Xà bao giờ cả. Chỉ có Lạc Tông Hàn sắc mặt hết sức nặng nề, lầm bẩm nói với mọi người: “Giang hồ rộng lớn, người tài nhiều khôn kể xiết. Nếu như đúng như Văn Giai nói, đôi nam nữ ấy là dị nhân được Nam Cung Phóng mời đến đối phó với chúng ta, e rằng Lạc gia trang gặp phải kiếp nạn rồi!”

“Thúc công, hay là đi báo quan.” Lạc Văn Giai vội nói.

“Báo quan? Những gì cháu vừa kể không bằng không cứ, ai sẽ tin đây? Trừ khi chúng ta bắt được đôi nam nữ kia, bằng không thì chẳng thể nào tố cáo được Nam Cung Phóng.” Nói rồi Lạc Tông Hàn quay lại dặn dò mọi người: “Từ đêm nay, chúng ta nhất định phải tăng cường cảnh giác, đặc biệt lưu ý đến những chỗ ẩn mật như rừng cây, mái nhà. Mỗi nhóm mười người, tuyệt đối không được hành động đơn độc.”

Mọi người đồng thanh đáp ứng, rồi lần lượt cáo từ về nhà. Lạc Văn Giai thấy ý kiến của mình không được coi trọng, cũng đành ủ rũ đi về trong sự bảo vệ của mọi người.

Suốt một đêm không có việc gì, trời vừa tảng sáng Lạc Văn Giai lại nghe thấy tiếng cồng triệu tập từ phía từ đường. Gã vội vàng chạy đến, liền thấy mấy chục người trong họ đã tập trung cả bên trong từ đường, người nào người nấy nét mặt nặng nề, còn trưởng họ Lạc Tông Hàn lại càng ủ dột u ám, chỉ trong một đêm mà dường như đã già đi rất nhiều. Giữa từ đường đặt một xác chết, Lạc Văn Giai nhận ra đó là một tráng hán rất khoẻ mạnh trong thôn, chẳng ngờ vừa sáng sớm đã lăn đùng ra chết  bất minh bất bạch ngay trong nhà mình.

“Sáng sớm tôi dậy cho lợn ăn, làm cơm sáng xong, liền đi gọi chồng dậy, lúc đấy mới phát hiện y đã… Tối hôm qua vẫn còn khoẻ, ai ngờ …” Một thiếu phụ đang quỳ khóc lóc bên xác chết, sắc mặt ngoài sự đau thương, còn đầy nét kinh hoàng sợ hãi. Cũng chẳng trách, người bên cạnh mình đột nhiên chết đi mà chẳng hiểu vì sao, vậy mà mình lại chẳng hay biết gì, dù là ai cũng cảm thấy sợ hãi.

Chúng nhân ngơ ngác nhìn nhau, không nói được câu nào, cuối cùng tất cả đều hướng ánh mắt về phía trưởng họ Lạc Tông Hàn. Chỉ thấy lão vân vê bộ râu, đảo mắt nhìn quanh một vòng, đoạn nói: “Ta đã tìm ngõ tác khám nghiệm tử thi nhưng cũng không thấy có vết thương nào, cũng chẳng thấy dấu hiệu trúng độc, dù có báo quan thì cũng chỉ được coi là chết bất đắc kỳ tử mà thôi. Xem ra việc này đã vượt ra khỏi khả năng giải quyết của chúng ta rồi, vậy nên sáng sớm nay ta đã sai nhi tử đi mời quán chủ Dương Châu võ quán, Thiết Chưởng Chấn Giang Nam Đinh Kiếm Phong đại danh đỉnh đỉnh rồi. Đinh quán chủ vốn có tiếng hiệp nghĩa, năm xưa ông ấy một mình đánh chết Thái Hành Thập Tam Lang, từng bị nội thương nghiêm trọng, chính ta đã cõng ông ấy vượt qua ba dãy núi tìm danh y mới kịp thời cứu được, tính ra thì thì ông ấy vẫn nợ ta một món ân tình. Nếu được Đinh quán chủ tương trợ, chúng ta nhất định đối phó được với Hắc Bạch Song Xà.”

Mọi người thở phào nhẹ nhõm, nhao nhao giơ ngón tay cái lên khen Lạc Tông Hàn: “Không ngờ khi xưa trưởng họ cũng từng hành hiệp trượng nghĩa như vậy, thật khiến đám hậu nhân chúng cháu kính ngưỡng vạn phần.”

Tiếng nói vừa dứt, liền nghe bên ngoài có tiếng vó ngựa, kế đó một người đứng cảnh giới bên ngoài từ đường kinh hãi hô lên: “Là Lạc đại ca! Lạc đại ca đã về!”

“Lạc đại ca” mà người đó gọi chính là con trai lớn của Lạc Tông Hàn. Nghe thấy tiếng kêu cuống quýt kinh hoảng ấy, Lạc Tông Hàn vội lao ra đón, liền trông thấy một con ngựa gầy chở con trai mình trên lưng đang đi chầm chậm đến rồi đứng lại trước cửa từ đường. Trên yên ngựa, nhi tử của lão đang nằm phục trên lưng ngựa bất động, tựa hồ như đang say ngủ.

“A Long!” Lạc Tông Hàn hét gọi tên con trai, cuống cuồng bước lên xem rõ sự tình. Được mọi người trợ giúp, rốt cuộc lão cũng đưa được con trai xuống, đặt nằm dưới đất, khi đó mới phát hiện, A Long vẫn còn thở thoi thóp, nhưng hai mắt đã nhắm nghiền, hoàn toàn bất tỉnh nhân sự.

“Đã xảy ra chuyện gì? Tại sao lại đến nông nỗi này?” Lạc Tông Hàn đưa mắt nhìn quanh. Một người trong họ vội báo cáo: “Lạc đại ca cưỡi ngựa đi chưa đầy một tuần hương, thì đã bất tỉnh nhân sự quay lại, cứ như trúng tà vậy.”

Trong đôi mắt Lạc Tông Hàn ánh lên lửa giận kinh người, đột nhiên xách Cửu hoàn đại đao xông ra khỏi từ đường, hướng về phía hư không quát lên: “Hắc Bạch Song Xà! Có bản lĩnh thì ra đây quang minh chính đại lấy cái đầu trên cổ Lạc Tông Hàn ta, nấp trong bóng tối ám hại người vô tội, anh hùng cái nỗi gì chứ?”

Nhưng chỉ có mấy con quạ bị tiếng thét của Lạc Tông Hàn làm sợ hãi, kêu lên “quạ quạ” rồi bay đi một quãng xa. Bốn bề xung quanh ngoài tiếng chim kêu thì chẳng còn âm thanh nào khác. Lạc Tông Hàn đứng mắng chửi một hồi  mà không ai đáp lại, cuối cùng đành hậm hực quay vào từ đường, gọi người đưa đứa con đang bất tỉnh nhân sự đi tìm đại phu chữa trị.

Hôm đó Lạc gia trang đã phải trải qua một ngày trong sự kinh khủng và bất lực. Đến buổi hoàng hôn ngày hôm sau thì lại có tin dữ, con trai đang hôn mê bất tỉnh của Lạc Tông Hàn cuối cùng cũng không chữa được mà vong mạng. Xem ra Hắc Bạch Song Xà đã tính sẵn thời cơ, không những không vi phạm lời hứa một ngày giết một người, mà còn không cho bất cứ một ai rời khỏi Lạc gia trang.

Ánh đèn lồng vàng vọt chiếu lên khuôn mặt mệt mỏi của Lạc Tông Hàn, chỉ qua có một đêm mà lão đã trông già đi cả chục tuổi, đảo mắt một vòng nhìn nét mặt kỳ vọng của chúng nhân, lão chậm dãi nói: “Xem ra chỉ còn cách đích thân ta đi Dương Châu một chuyến, nhân bây giờ trời đã tối, ta đi cả đêm thì sớm ngày mai là đến Dương Châu. Chỉ cần có Đinh quán chủ ra tay trợ giúp là Lạc gia trang ta có thể bình an rồi.”

Nói đoạn lão cầm cây cửu hoàn đao đảo mắt một vòng nhìn người trong họ tộc, đang định hiên ngang bước ra cửa, bỗng thấy Lạc Văn Giai bước ra khỏi đám đông, đứng chắn ngang lối đi của lão. Nhìn vẻ mặt ủ ê của gã, Lạc Tông Hàn bất giác cố làm ra vẻ thoải mái cười nói: “Văn Giai, cháu không cần lo lắng. Thúc công ngày trước cũng từng bôn tẩu trên giang hồ, thanh cửu hoàn đao này cũng từng uống máu không ít bọn tiểu nhân tặc tử. Nếu như gặp Hắc Bạch Song Xà cản đường, dù thúc công không đánh lại được hắn, thì thoát thân cũng không phải vấn đề gì lớn cả.”

Lạc Văn Giai ngập ngừng nói nhỏ: “Thúc công, tuy lão nhân gia anh hùng không kém gì năm xưa, nhưng nếu để cháu bí mật đi một đường khác đến Dương Châu, có phải càng chắc chắn hơn không?”

Lạc Tông Hàn nhìn vào khoảng không, hồi lâu không nói gì. Tuy ban nãy lão nói hết sức ung dung, nhưng trong lòng cũng tự biết rằng nếu mình bị Hắc Bách Song Xà ngăn cản, một chút công phu thiển bạc ấy căn bản không thể tự bảo vệ được bản thân, nếu để Lạc Văn Giai bí mật đi đường khác đến Dương Châu, đó cũng là một cách vạn vô nhất thất. Nghĩ đến đó, lão bèn móc trong ngực ra một miếng ngọc bội đưa cho Lạc Văn Giai nói: “Đây là tín vật năm đó Đinh quán chủ trao cho thúc công, ông ấy từng nói với ta, nếu gặp nguy nan, chỉ cần cho người đưa tín vật này đến gặp ong ấy, thì cho dù có phải nhảy vào nước sôi lửa bỏng, sống chết ông ấy cũng không từ. Thúc công chẳng phải hạng người thi ân để chờ báo đáp, trước nay chưa bao giờ nghĩ đến việc dùng miếng ngọc bội này. Nhưng hôm nay Lạc gia trang gặp nạn, đành phải đến cầu ông ấy giúp vậy. Khi gặp Đinh quán chủ, cháu chỉ cần đưa viên ngọc này ra, ông ấy sẽ tự biết nên làm thế nào.”

“Thúc công yên tâm! Cháu sẽ không làm người thất vọng đâu!” Lạc Văn Giai nói rồi nhận lấy miếng ngọc cất kỹ vào trong ngực áo. Lạc Tông Hàn hài lòng gật gật đầu, vỗ vai Lạc Văn Giai nói: “Cháu hiểu biết nhiều, lại biết nói năng biện bác, cũng chỉ có cháu đưa tin thì ta mới yên tâm được. Thúc công sẽ đi đường lớn đánh lạc hướng Hắc Bạch Song Xà, cháu hãy dùng đường thuỷ đi thâu đêm tới Dương Châu. Tính mạng mấy chục người trong Lạc gia trang đều đặt lên vai hai chúng ta đó!”

“Dạ!” Lạc Văn Giai gật mạnh đầu, tuy tay chân trói gà không chặt, nhưng trong lòng gã, vẫn dâng trào lên một bầu nhiệt huyết.

Sau khi trời tối hẳn, Lạc Tông Hàn đốt đuốc dong ngựa ra đường lớn hướng về phía Dương Châu, cùng lúc đó, Lạc Văn Giai cũng cáo biệt thân mẫu, bí mật lên thuyền chèo nhỏ đi xuôi dòng, ngược với hướng đi của Lạc Tông Hàn. Gã muốn an toàn rời khỏi Lạc gia trang rồi mới đi đường vòng tới Dương Châu.

II. Cạm bẫy

Dương Châu vốn là một cảng thông thương lớn, đô hội phồn hoa như thế, ở Giang Nam cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ở vùng thương gia cự phú qua lại nhiều không kể xiết này, tự nhiên cũng không thể thiếu được võ lâm cao thủ ở các môn các phía. Của cải lúc nào cũng cần võ lực bảo vệ, bởi thế, ở Dương Châu này, số lượng võ quán của các lưu phái khác nhau nhiều không đếm xuể, tuyệt đối không ít hơn số các tiệm gạo trong thành. Trong vô số các võ quán cạnh tranh kịch liệt ấy, có một võ quán sinh ý hưng vượng, tiếng tăm lẫy lừng, người người đều biết, chính là “Dương Châu võ quán” đã nức tiếng Dương Châu mấy chục năm nay. Danh vọng ấy quá nửa đều nhờ vào đôi thiết chưởng của quán chủ Đinh Kiếm Phong, cùng với vô số sự tích hành hiệp thiên hạ của lão năm xưa.

Ngày hôm đó, cũng như mọi ngày, Đinh Kiếm Phong đang đốc thúc các đệ tử trong quán luyện võ, thì thấy một đệ tử cầm một miếng ngọc bội vội vã chạy đến bẩm báo: “Quán chủ, có một người trẻ tuổi nói mình được Lạc Tông Hàn uỷ thác đến xin quán chủ giúp đỡ, đây là tín vật của y.”

“Lạc Tông Hàn?” Đinh Kiếm Phong giật mình, cầm lấy miếng ngọc bội xem, nét mặt lập tức lộ vẻ kinh ngạc mừng rỡ, vội nói với tên đệ tử đó: “Mau mau mời y vào!”

Lạc Văn Giai được một đệ tử dẫn vào trong đệ nhất võ quán danh chấn Giang Nam, chỉ thấy các đệ tử đều đang luyện tập võ công. Trong quán, đao quang kiếm ảnh, tiếng người hò hét vang lên liên miên bất tuyệt. Có hai đệ tử đang tỷ võ, quyền đến cước đi đều thập phần hiểm ác; một người khác đang luyện đao một mình, lưỡi đao rít lên trong không khí, nghe rùng cả mình; một đệ tử đã lớn tuổi được các sư huynh đệ cổ vũ, đột nhiên hét lên, một chưởng chặt xuống làm tấm đá xanh vỡ tung toé… Lạc Văn Gia chỉ biết há mồn trợn mắt đứng nhìn, đây là một thế giới hoàn toàn mới mẻ mà gã chưa từng tiếp xúc bao giờ, một thế giới khiến người ta ngất ngây ngưỡng mộ.

Một lão già áo nâu thân hình cao lớn khoẻ mạnh có mấy đệ tử đi đằng sau bước tới đón gã, đám đệ tử đang luyện võ vội thu thế chắp tay thi lễ với lão ta, lão già đưa tay làm hiệu cho mọi người tiếp tực luyện tập, sau đó quay sang nói với Lạc Văn Giai: “Chàng trai trẻ, là cậu mang miếng ngọc này đến phải không? Xin hỏi cậu là người như thế nào với Lạc Tông Hàn?”

“Người là thúc công của cháu!” Lạc Văn Giai vội đáp.

“Thì ra là cháu trai của ân công!” Nét mặt lão già lộ vẻ vui mừng, cao giọng nói: “Lão phu chính là Đinh Kiếm Phong, hiền điệt, mời vào trong nói chuyện!”

Lạc Văn Giai nghe vậy, vội chắp tay bái lạy, nói: “Đinh quán chủ! Xin lão nhân gia người cứu lấy Lạc gia trang !”

“Hiền điệt làm gì vậy?” Đinh Kiếm phong vội đỡ Lạc Văn Giai đứng lên, “Có chuyện gì đi vào trong rồi từ từ nói. Ta mang ơn cứu mạng của thúc công cháu, có chuyện gì to lớn lão phu cũng quyết không từ chối.”

Hai người đi vào phòng trong, sau khi nghe hết nguyên nhân Lạc Văn Giai đến xin trợ giúp, sắc mặt Đinh Kiếm Phong không khỏi trở nên nghiêm trọng, một lúc sau mới hỏi: “Thế thúc công cháu nay sao rồi?”

Lạc Văn Giai buồn bã cúi đầu: “Khi cháu ra khỏi thôn theo đường thuỷ,  từng nghe thấy ở đường lớn đầu thôn, tiếng thúc công mắng chửi, hiển nhiên là thúc công đã thu hút sự chú ý của Hắc Bạch Song Xà để cháu đi an toàn. Sợ rằng người đã…”

Đinh Kiếm Phong thở dài não nuột, vỗ nhẹ vào vai Lạc Văn Giai nói: “Cháu yên tâm, nếu thúc công cháu không may chết trong tay Hắc Bạch Song Xà, lão phu nhất định sẽ thay cháu lấy mạng hai tên súc sinh đó. Nhưng…”

Thấy Đinh Kiếm Phong ngập ngừng giữa chừng, Lạc Văn Giai vội hỏi: “Nhưng sao cơ? Xin Đinh Quán chủ cứ nói?”

Đinh Kiếm Phong do dựng nói: “Nếu như Nam Cung thế gia trả giá hợp lý, ta thấy… cháu nên khuyên thúc công cháu đem bán ruộng đất của Lạc gia cho Nam Cung Phóng đi.”

“Sao cơ?” Lạc Văn Giai tái mặt, “Lạc gia trang vốn là sản nghiệp của tổ tiên để lại cho hậu thế, nhà cháu đời đời đều sinh sống tại đó, đó không chỉ là cơ nghiệp để người họ Lạc dựa vào sinh sống, mà cũng là phần mộ tổ tiên của Lạc gia, làm sao có thể đem bán? Nếu như thúc công muôn bán, lẽ nào còn cần cháu phải đến đây xin quán chủ giúp đỡ? Quán chủ nói như vậy, có phải là vì Nam Cung thế gia quyền cao thế mạnh, ngay cả Thiết Chưởng Chấn Giang Nam cũng không dám đụng tới?”

Đinh Kiếm Phong nghẹn lời, lắc đầu cười khổ: “Quyền cao thế mạnh? Người thường sao có thể hiểu được hết hàm ý thực sự của mấy chữ đó?” Nói đoạn lão bèn thuận tay chỉ ra xung quanh, “Hiền điệt, cháu thấy võ quán của ta có thể xem là bề thế không?”

Lạc Văn Giai gật đầu: “Trước khi đến đây, chưa bao giờ cháu nghĩ rằng Dương Châu võ quán lại to lớn thế này, quả nhiên không hổ là Giang Nam đệ nhất võ quán.”

“Nhưng đây chỉ là một sản nghiệp không quan trọng lắm của Nam Cung thế gia,” Đinh Kiếm Phong lắc đầu thở dài, “Tất cả mọi thứ ở đây từ cây cỏ, cho đến các võ sư trong võ quán đều thuộc về Nam Cung thế gia. Lão phu mang danh là quán chủ nhưng thực chất chỉ là một kẻ nhàn rỗi được Nam Cung thế gia nuôi, chỉ cần họ muốn thì bất cứ lúc nào cũng có thể khiến lão phu phải cuốn gói ra đi. Trong thành Dương Châu này, cơ hồ như một nửa sản nghiệp là thuộc về họ Nam Cung, có nói họ phú khả địch quốc cũng không có gì là khoa trương. Không những thế, Nam Cung thế gia còn trên kết giao quyền thần, dưới thu nạp đủ hạng tam giáo cửu lưu, ở Giang Nam này, tất cả các bang hội lớn nhỏ đều ít nhiều có qua lại với Nam Cung thế gia, ngay cả quan phủ địa phương cũng phải nhìn sắc mặt họ mà hành sự, nói họ là hoàng đế một phương cũng không quá chút nào. Trong một trăm dặm quanh Dương Châu này, háu có thể chống đối quan phủ nhưng tuyệt đối không thể đối đầu với Nam Cung thế gia, đó là thường thức để sinh tôn ở đây đó.”

Lạc Văn Giai đứng lặng người, một lúc sau mới chua chát nói: “Rõ rồi! Đường đường Thiết Chưởng Chấn Giang Nam Đinh quán chủ, chẳng qua cũng chỉ là một một… của Nam Cung thế gia, tại hạ không dám nhờ quán chủ giúp đỡ nữa. Cáo từ!”

“Hiền điệt muốn đi đâu?”

“Không dám làm Đinh quán chủ lao tâm, dẫu ở Dương Châu này Nam Cung thế gia có thể một tay che trời, nhưng tại hạ nghĩ ở dưới gầm trời này, thế nào cũng có nơi tay họ không che tới! »

Nhìn Lạc Văn Giai hiên ngang đi ra, Đinh Kiếm Phong do dự giây lát, đột nhiên nghiến răng chạy theo gọi: “Hiền điệt chờ chút! Lão phu nhất định không để ân công thất vọng!” Nói đoạn, lão đã không nói không rằng, nắm lấy cánh tay Lạc Văn Giai đi ra cửa trong ánh mắt kinh ngạc của các đệ tử.

Xe ngựa lộc cộc lăn bánh đi qua nửa thành Dương Châu, cuối cùng dừng lại trước của một phủ đệ trang nhã cổ kính. Lạc Văn Giai theo Đinh Kiếm Phong xuống xe, đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy tường bao quanh phủ đệ đã loang lổ, cửa lớn ảm đạm, hai con sư tử đá trước phủ cũng bị rêu xanh bám đầy. Tuy nhìn thì có vẻ cũ kỹ, nhưng ngược lại cũng toát lên một sự uy nghiêm và từng trải trầm tích qua nhiều năm tháng.

“Đây là đâu?” Lạc Văn Giai nghi hoặc hỏi, vừa nói hết câu thì nhìn thấy  trên bức hoành phi treo khuất bên dưới mái hiên có mấy chữ đại tự, nét bút cổ phác mà mạnh mẽ. Nam Cung Phủ Đệ.

“Lão phu đưa cháu đi gặp tông chủ của Nam Cung é gia,he Nam Cung Thuỵ, dù sao y cũng ít nhiều cũng nể cái mặt già này của ta.” Đinh Kiếm Phong nói rồi đi lên gọi cửa. Lạc Văn Giai vốn không muốn đi cầu xin người của Nam Cung thế gia nhưng thấy Đinh Kiếm Phong rất thành khẩn, gã cũng không tiện làm đối phương mất hứng.

Hai cánh cửa nặng nề hé mở trong tiếng kêu kẽo kẹt, rồi một lão già thò đầu ra, thấy Đinh Kiếm Phong đứng ngoài cửa, không khỏi thoáng ngẩn ra nói: “Đinh quán chủ!”

“Phúc bá! Lão phu có việc gấp muốn cầu kiến Nam Cung tông chủ, cảm phiền lão thông báo giùm một tiếng.” Đinh Kiếm Phong vội đưa hai tay bái chào.

“Có thiệp mời hay bái thiếp không?” Lão già hỏi.

“Ta đi vội, không chuẩn bị bái thiếp.” Đinh Kiếm Phong vừa nói vừa đặt vào tay lão già một đĩnh bạc. Lạc Văn Giai kinh ngạc nhận ra, đĩnh bạc đó phải trên dưới mười lạng, đủ cho một gia đình nghèo hèn tiêu dùng trong nửa năm. Ai ngờ lão già kia chẳng buồn để ý, chỉ thuận tay nắn nắn đĩnh bạc, ra vẻ khó khăn nói: “Đinh quán chủ, ngài cũng biết quy định nhà chúng ta rồi đấy, nếu không có thiệp mời hay bái thiếp, dẫu là tri phủ Dương Châu đến, tông chủ cũng nhất loạt không tiếp.”

“Thế nên mới phiền Phúc bá nói giùm ta.” Đinh Kiếm Phong vội chắp tay lại, nét mặt khẩn thiết, hoàn toàn không còn khí khái lúc trước nữa.

Lão già thở dài một tiếng, nhận lấy đĩnh bạc nói: “Cũng phải là người có thể diện như Đinh quán chủ đây, lão nô mới dám đi nói hộ ngài. Nếu phải người khác, có đem cho lão cả núi vàng, lão nô cũng không dám phạm vào quy định.” Nói đoạn lão bỏ lại Đinh Kiếm Phong và Lạc Văn Giai, đi thẳng vào trong.

Đinh Kiếm Phong thở phào, yên tâm đứng ngoài cửa đợi. Lạc Văn Giai thấy vậy, không nén nổi nói: “Lão Nam Cung Thuỵ này thật là kiêu căng, coi mình là hoàng đế không bằng?”

“Cháu đừng nói bậy!” Đinh Kiếm Phong vội chấn chỉnh, “Với địa vị của Nam Cung thế gia tại Giang Nam, dù là hoàng gia cũng chỉ thế mà thôi. Chốc nữa gặp mặt Nam Cung tông chủ, cháu tuyệt đối không được bất kính mà làm hỏng chuyện lớn của chúng ta đấy.”

Lạc Văn Giai đang muốn tranh luận, thì đã thấy lão già vừa nãy đang đi nhanh ra rồi nói với hai người: “Đinh quán chủ, tông chủ có lời mời.”

Hai người đi theo lão gia nhân ấy qua cổng lớn, qua giếng trời vào cửa thứ hai, rồi vòng qua một dãy hành lang quanh co khúc khuỷu, cuối cùng dừng lại trước một gian sảnh ở mé bên. Chỉ thấy một lão già dung mạo hoà nhã mặc áo tím từ trong phòng bước ra, chắp tay cười cười nói: “Đinh quán chủ, không biết cơn gió nào đưa vị khách hiếm như ngài ghé qua đây vậy?”

Đinh Kiếm Phong vội tiến lên hai bước chắp tay chào đáp lễ: “Đinh mỗ mạo muội đến gõ cửa, hy vọng là không quấy nhiễu Tông chủ thanh tu.”

“Đâu có, đâu có!” Nam Cung Thuỵ cười cười làm động tác mời vào. Sau khi vào phòng ba người chia ngôi vị khách chủ ngồi xuống lập tức có nha hoàn dâng trà thêm lên. Nam Cung Thuỵ đợi ả nha hoàn lui vào trong mới hỏi: “Không biết Đinh quán chủ bất ngờ đến thăm là có chuyện gì?”

Đinh Kiếm Phong vội đáp: “Nghe nói quý phủ đang thu mua một lượng lớn điền sản ở ngoại thành, trong đó bao gồm cả khu đất Lạc gia trang của hiền điệt đây, không biết là chuyện ấy thế nào?”

Nam Cung Thuỵ ngẩn người: “Không sai, việc đó lão tam đang thực hiện, thế sao?”

Đinh Kiếm Phong vội đáp: “Năm xưa, trưởng họ của Lạc gia trang Lạc Tông Hàn đã từng cứu mạng tiểu lão. Không biết Tông chủ có thể nể mặt cho ông ấy một con đường không?”

Nam Cung Thuỵ thoáng ngạc nhiên: “Đinh quán chủ sao lại nói vậy? Phải chăng lão tam cố ý ép giá nên việc mua bán không thành?”

“Không phải vấn đề giá tiền,” Đinh Kiếm Phong vội tiếp, “Lạc gia đời đời sinh sống tại đó, ân công của lão không nỡ bán đi tài sản tổ tiên để lại. Trộm nghĩ, Nam Cung thế gia có cả nghìn vạn mảnh ruộng đất phì nhiêu, cũng chẳng thiếu gì mảnh đất nghèo ở chân núi đó, thế mới hy vọng tông chủ thu lại mệnh lệnh.”

“Việc này thì khó rồi.” Nam Cung Thuỵ xua tay tỏ vẻ khó khăn, “Chúng ta hợp tác với Đường Môn xây dựng một trường đua ngựa ở bên ngoại ô. Ông cũng biết đấy, bên ngoài thành Dương Châu đa số là ruộng nước, không thì sông ngòi dày đặc, rất khó tìm được nơi nào có dải đất như ở đó. Hiện nay, suốt mười dặm vuông xung quanh Lạc gia trang chúng ta và Đường Môn đã bỏ ra hàng chục vạn lạng mua cả rồi, thế nào cũng không thể bỏ dở giữa chừng được đúng không?”

Đinh Kiếm Phong ngẩn người ra, không ngờ chuyên này lại can hệ lớn đến vậy, nhất thời cũng không biết phải giải quyết thế nào mới được. Lại nghe Nam Cung Thuỵ tiếp tục nói: “Hơn nữa việc này là chuyện hợp tác với Đường Môn, cứ coi như lão phu nể mặt quán chủ, bất chấp kế hoạch mà các thành viên gia tộc đã họp bàn đặt ra để thu hồi lại mệnh lệnh, thì Đường Môn cũng tuyệt đối không chấp nhận đâu.”

Đinh Kiếm Phong khó xử nhìn Lạc Văn Giai, định tiếp tục cầu tình Nam Cung Thuỵ, miệng mở ra nhưng chưa biết nói như thế nào cho phải, lại nghe thấy Nam Cung Thuỵ cười cười nói tiếp: “Có điều vì Đinh quán chủ đã có lời, lão phu không thể không nể mặt. Ta sẽ bảo lão tam tăng giá lên hai phần nữa, ông cũng phải giúp lão phu khuyên vị bằng hữu kia, để ông ấy hiểu rằng, chỗ đất ở Lạc gia trang ấy, chí chúng ta đã quyết, ngoài chuyện ấy ra thì mọi vấn đề đều dễ dàng thương lượng cả.”

Tuy giọng điệu của Nam Cung Thuỵ ôn hoà, nét mặt cũng rất nhã nhặn, nhưng Đinh Kiếm Phong vẫn nghe ra được sự quyết đoán của đối phương. Lão chỉ đành đưa ánh mắt nhìn về phía Lạc Văn Giai, hy vọng gã có thể hiểu được sự việc, không cố chấp giữ gìn Lạc gia trang nữa, mà tận dụng giá cao bán đất. Nào ngờ, Lạc Văn Giai bỗng đùng đùng đứng dậy, cung kính hành lễ đối với Đinh Kiếm Phong nói: “Đa tạ Đinh quán chủ giúp đỡ, cháu mãi mãi ghi nhớ đại ân đại đức của ngài!”

Đinh Kiếm Phong thở phào đang định nói đôi lời an ủi, thì thấy gã quay sang phía Nam Cung Thuỵ, ngang nhiên nói: “Nam Cung tông chủ, Lạc gia trang không phải là không thể mua được, chỉ là có một điều kiện mà thôi.”

“Điều kiện gì? Người nói luôn đi?” Nam Cung Thuỵ hỏi.

“Chỉ cần ngài bằng lòng đem mồ mả của Nam Cung thế gia đổi cho chúng ta, chúng ta sẽ lập tức rời đi!” Lạc Văn Giai lạnh lùng đáp.

Nụ cười của Nam Cung Thuỵ dần trở nên gượng gạo, nhưng y cũng không nổi giận, chỉ bình tĩnh đưa chén trà lên, hờ hững nói: “Tiễn khách!”

Đinh Kiếm Phong thấy vậy, sắc mặt đại biến, vội chắp tay thi lễ với Nam Cung Thuỵ nói: “Thiếu niên nói năng không biết nặng nhẹ, tông chủ đại nhân đại lượng, ngàn vạn lần xin chớ để trong lòng.”

Nam Cung Thuỵ mỉm cười nói: “Ta không chấp trẻ con đâu, Đinh quán chủ bất tất phải đa lễ.”

“Nam Cung Tông chủ, bây giờ ta xin thay mặt thúc công trả lời ông, Lạc gia trang cho dù chỉ còn lại một người cũng tuyệt đối không bán!” Lạc Văn Giai nói hết câu lập tức quay người bước đi, “Ta không tin trong trời đất này lại không còn vương pháp, ta không tin Nam Cung thế gia có thể một tay che trời!”

“Hiền điệt đợi đã!” Đinh Kiếm Phong thấy Lạc Văn Giai giận dữ bỏ đi, vội đưa tay bái chào Nam Cung Thuỵ rồi chạy đuổi theo ra cửa, đến đầu phố thì bắt kịp Lạc Văn Giai: “Hiền điệt, giờ cháu định đi đâu?”

Lạc Văn Giai quay đầu lại đáp: “Đinh quán chủ, ngài đã làm hết sức rồi, tuy kết quả không được viên mãn, nhưng cũng xem như đã báo đáp được ân tình của thúc công, cháu vẫn thập phần cảm kích. Từ nay về sau giữa ngài và Lạc gia đã không còn nợ nần gì nữa, chuyện của Lạc gia không cần ngài bận tâm nữa.”

Đinh Kiếm Phong thần người ra tại chỗ, hổ thẹn nhìn Lạc Văn Giai ngạo mạn bước đi. Đi chưa được bao xa, lại thấy gã dừng lại trước một quầy bán bánh quẩy nóng, mua một chiếc bánh quẩy ăn ngon lành, dường như chuyện vừa rồi không hề ảnh hưởng đến khẩu vị của gã vậy. Lúc này, Đinh Kiếm Phong mới cảm thấy bụng sôi “ọc ọc”, sực nhớ ra, vừa rồi đi bái kiến Nam Cung Thuỵ quên luôn là đã quá giờ cơm.

Đinh Kiếm Phong chắp tay chậm rãi bước đến trước sạp hang nhỏ, chủ hàng đứng sau quầy vội dừng công việc trên tay lại, cười chào mời: “Đinh quán chủ, ngài cũng dùng vài cái chứ?”

Đinh Kiếm Phong chỉ hờ hững “Ừ” một tiếng, rồi nhìn chăm chăm vào chảo dầu đang sôi sùng sục. Đúng lúc chủ quầy quay người đi lấy bánh quẩy, Đinh Kiếm Phong bất ngờ nghiến rang, nhúng cả hai tay vào chảo dầu sôi ấy.

“Á……..” Cùng tiếng kêu thảm thiết của Đinh Kiếm Phong, bầu không khí lập tức dậy lên một mùi thịt kỳ dị. Mấy người khách đang ăn uống ở sạp hàng gần đấy, thấy cảnh đó chỉ biết trợn mắt há hốc mồm ra, hồi lâu chẳng biết phản ứng thế nào.

“Đinh quán chủ! Ngài, ngài làm gì vậy?” Lạc Văn Giai vừa đi chưa được bao xa vội chạy như bay tới, thất sắc sợ hãi nhìn gương mặt tái nhợt đang nhăn lại vì đau đớn của Đinh Kiếm Phong. Chỉ thấy lão nhấc đôi tay trông thê thảm chẳng nỡ nhìn trong trảo dầu ra, nở một nụ cười bi thương nói với Lạc Văn Giai: “Hiền điệt, phiền cháu chuyển lời với thúc công rằng, đôi thiết quyền của Đinh Kiếm Phong ta đã bị phế, không thể nào giúp ông ấy được nữa.” Nói dứt lời, bỗng thấy toàn than lão mềm nhũn ra, ngã lăn ra đất.

Lạc Văn Giai đứng ngẩn ngơ nhìn mọi người xúm lại xốc Đinh Kiếm Phong lên đưa đến y quán. Đến khi mọi người đã đi xa, gã vẫn không dám tin vào đôi mắt mình. Lẽ nào Nam Cung thế gia thật sự đáng sợ như vậy, đến cả khiến cho Thiết Chưởng Chấn Giang Nam Đinh Kiếm Phong, cũng thà tự nguyện phế đôi tay cũng không dám đối địch? Lạc Văn Giai chợt thấy sống lưng lạnh toát, chân tay băng lạnh, một cảm giác buốt giá lan từ đáy tâm can chảy đi khắp toàn thân.

Ta không tin! Lạc Văn Giai gắng sức tự trấn áp nỗi sợ hãi trong tâm can mình, thầm hằn học tự nhủ: Ta không tin thế gian này không có đạo trời vương pháp, ta không tin Nam Cung thế gia kia lại có thể một tay che trời!

Giận dữ ném chiếc bánh quẩy trong tay đi, Lạc Văn Gia sải bước tiến lên, không xa phía trước chính là nha môn tri phủ Dương Châu, bên ngoài cánh cổng cao lớn uy nghiêm có đặt sừng sững một chiếc trống kêu oan lớn, mang tới cho kẻ đang trong cơn tuyệt vọng tột cùng một tia hy vọng mong manh.

“Thùng, thùng, thùng………” Tiếng trống trầm đục xua tan đi không khí nặng nề u ám của nha phủ, mấy tên nha dịch đang mệt mỏi buồn ngủ ở của phủ tức thì giật nảy mình, đồng thanh quát hỏi: “Kẻ nào đánh trống?”

“Thảo dân có oan tình!” Lạc Văn Giai dâng cao bản cáo trạng vừa viết vội lên kêu lớn, “Thảo dân muốn gặp tri phủ đại nhân! Xin tri phủ đại nhân giải oan cho thảo dân!”

“Người chờ ở đó!” Tên nha dịch buông ra một câu, rồi vội vã đi vào trong, giây lát sau thì nghe thấy từ trong nha phủ vọng ra tiếng hô nghiêm nghị của đám nha dịch: “Thăng…đường…-”.

Lạc Văn Giai hiên ngang đi vào công đường trong ánh mắt rình rập nghiêm nghị của đám sai nha, vào đến bên trong thì thấy một vị quan mặc áo bào gấm, mặt mũi trắng trẻo nhẵn nhụi đã ngồi sau bàn xử án, xem cách ăn mặc của y, thì biết đây chính là tri phủ Dương Châu, Phí Sĩ Thanh. Tuy đây là lần đầu tiên gặp quan phụ mẫu nhưng Lạc Văn Giai đã sớm nghe đến đại danh của lão, gã vội chắp hai tay bái chào: “Học trò Lạc Văn Giai bái kiến tri phủ đại nhân!”

“Kẻ nào dưới công đường kia? Gặp bản quan tại sao không quỳ?” Phí Sĩ Thanh cả giận vỗ án đánh “chát” một tiếng, hai hàng nha dịch lập tức nhất tề hô “uy vũ”, thanh thế cũng thực kinh người. Nhưng vẫn thấy Lạc Văn Giai không cao ngạo cũng chẳng khúm núm chắp tay nói: “Đại nhân, học trò có chút công danh, theo Đại Minh Luật Lệnh, học trò không phải quỳ bái trước bất cứ quan viên nào.”

“Hừ! Thì ra đường đường là một tú tài tinh thông luật pháp Đại Minh.” Phí Sĩ Thanh nói đoạn cười lạnh lùng, “mang cáo trạng lên đây!”

Lạc Văn Giai bước lên hai bước đưa bản cáo trạng cho người sư gia đứng bên cạnh, để lão dâng lên nó lên cho tri phủ. Chỉ thấy Phí Sĩ Thanh nhận lấy dở ra xem, nét mặt đột nhiên biến sắc, xem lướt qua một lượt liền ném xuống: “Toàn những lời lẽ xằng bậy, đúng là đồ bỏ đi!”

“Đại nhân! Không biết bản cáo trạng của học trò có chỗ nào bậy bạ?” Lạc Văn Giai cao giọng chất vấn.

Phí Sĩ Thanh thoáng trầm ngâm rồi “hừ” một tiếng lạnh lùng nói: “Ngươi nói tam công tử của Nam Cung thế gia Nam Cung Phóng vì muốn ép mua đất tổ của gia tộc nhà ngươi mà đã phái đến hai sát thủ Hắc Bạch Song Xà nhiều lần sát hại bách tính ở Lạc gia trang, việc trên có bằng chứng gì không?”

“Tận mắt học trò nhìn thấy, tận tai học trò nghe được!” Lạc Văn Giai lập tức kể lại một lượt chuyện đêm trước bị Hắc Bạch Song Xà bắt lên trên cây. Ai ngờ Phí Sĩ Thanh hỏi lại: “Việc đó ngoài ngươi ra, còn có ai chứng kiến không?”

Lạc Văn Giai ngần ngừ chẳng biết làm thế nào, đành trả lời: “Không có!”

Phí Sĩ Thanh cười gằn một tiếng: “Cứ xem như bản quan tin từng lời ngươi vừa kể là sự thực, thì người lấy cái gì để khẳng định những kẻ xấu số ở Lạc gia trang chết dưới tay Hắc Bạch Song Xà chứ? Đến Đại phu cũng không tìm ra nguyên nhân cái chết, có lẽ họ chết do ôn dịch cũng không chừng, sao ngươi có thể đem nguyên nhân những cái chết đó đổ hết lên Nam Cung thế gia? Ngươi nói như vậy chẳng phải là nói bậy thì là cái gì?”

Lạc Văn Giai ngỡ ngàng chết đứng một lúc rồi mắt bỗng đẫm lệ kêu van: “Đại nhân! Hiện Lạc gia trang vẫn đang có người chết, cứ xem như bản cáo trạng của thảo dân thuật lại vụ án không được rõ ràng chặt chẽ, đại nhân cũng nên phái bổ khoái nhanh chóng đến Lạc gia trang, trước là nắm tình hình sau là bảo vệ an toàn cho bách tinh trong thôn chứ!”

“Nên xử án như thế nào, bản quan không cần ngươi phải dạy.” Phí Sĩ Thanh cười nhạt, “Ngươi cứ về trước đợi dăm bữa nửa tháng, nếu như ở Lạc gia trang vẫn có người chết, bản quan sẽ phái người đến điều tra làm rõ!”

“Dăm bữa nửa tháng?” Lạc Văn Giai kinh ngạc không kìm được kêu lớn: “Thế thì Lạc gia trang có thể chết thêm cả mười mấy người! Đại nhân làm sao có thể nhẫn tâm…”

Lời chưa dứt đã thấy Phí Sĩ Thanh phủi áo quay người đi vào, đám sai nha cũng nhất tề hô lớn: “Bãi … đường…”

Lạc Văn Giai vẫn muốn tranh biện thêm, nhưng lại bị đám sai nha xúm lại lôi xềnh xệch ném ra khỏi nha phủ. Gã lồm cồm bò dậy, thì đã thấy cửa nha phủ đóng chặt, lại còn có mấy tên sai nha đứng gác bên ngoài không cho phép bất cứ ai đến gần trống kêu oan. Lạc Văn Giai không biết phải làm sao, đành chỉ vào cửa nha phủ nói lớn: “Ta không tin! Ta không tin trời đất này không còn đạo lý! Ta không tin Nam Cung thế gia có thể một tay che trời! Tri phủ Dương Châu không quản, ta báo lên  đề hình Kim Lăng. Nếu đề hình Kim Lăng không tiếp nhận, ta sẽ liên tận kinh thành dâng cáo trạng tới Thánh thượng! ”

Nói đoạn gã quay người bước đi, ai ngờ suýt đâm vào một người đứng đằng sau. Lạc Văn Giai ngẩnh đầu lên nhìn, đối phương chính là Nam Cung Phóng, bạch y còn trắng hơn cả tuyết, khí độ phong lưu ngời ngời.

“Nam Cung Phóng!” Ánh mắt Lạc Văn Giai như muốn toé lửa nhìn chăm chăm vào đối phương, gằn giọng quát lên: “Ngươi chớ vội đắc ý, cứ xem như ở Dương Châu này không có ai dám động đến ngươi, ta không tin trong thiên hạ không có người nào trị được ngươi!”

Nam Cung Phóng không cho là vậy, cười nhạt nói: “Lạc tú tài nói đùa rồi, Nam Cung Phóng ta luôn tuân thủ luật pháp, lẽ nào lại sợ kẻ khác vu cáo sao? Ngược lại Lạc tú tài nên cẩn thận, ngàn vạn lần chớ nên sơ sẩy mà bị tống vào ngục đó, lúc ấy thì uổng công học hành, mà còn khiến các bậc chí thành tiên hiền mất mặt nữa đó!”

Lạc Văn Giai “hừ” một tiếng lạnh lùng, chẳng đếm xỉa đến lời cảnh báo của Nam Cung Phóng, nhặt lấy tờ cáo trạng rồi quay người bước đi. Nam Cung Phóng lạnh lùng nhìn gã đi xa dần, nụ cười tủm tỉm trên gương mặt dần chuyển thành lạnh lẽo. Đúng lúc đó, Phí Sĩ Thanh mặc thường phục chạy vội từ trong nha phủ ra, từ xa đã chắp hai tay lĩnh tội: “Không biết tam công tử giá lâm, hạ quan không nghiêng tiếp được từ xa, xin công tử thứ tội!”

“Phí đại nhân khách khí rồi!” Nam Cung Phóng đáp lễ nói: “Tại hạ chẳng qua là có việc đi qua nơi này, tiện thể đến bái kiến Phí đại nhân một chút thôi.”

“Hiếm có khi tam công tử rảnh rỗi thế này, xin mời vào trong!” Phí Sĩ Thanh vội đưa tay ra hiệu mời rồi cùng Nam Cung Phóng đi vào nha phủ.

Hai người bước vào phòng khách mé bên nha phủ ngồi xuống, đợi ả nha đầu bưng trà thơm lên đi khỏi, Phí Sĩ Thanh nâng chén trà lên cười cười nói: “Tam công tử bất ngờ giá lâm, nhất định là có chuyện cần nói phải không?”

Nam Cung Phóng thở dài đặt chén trà xuống đáp: “Xem ra không có chuyện gì có thể qua được mắt Phí đại nhân. Không giấu gì ngài, tại hạ đang có chút việc muốn nhờ đại nhân giúp đỡ.”

“Tam công tử có việc gì, xin cứ nói ra!” Phí Sĩ Thanh vội nói.

Nam Cung Phóng điềm đạm nói: “Vừa nãy ta về nhà, nghe gia phụ nói lại, rất có thể có người sẽ vu cáo tại hạ, nên tại hạ chẳng kịp hỏi cặn kẽ vội chạy đến bái kiến Phí đại nhân.”

“Tam công tử hà tất phải lo lắng!” Phí Sĩ Thanh xua tay nói như chưa hề có chuyện gì xảy ra, “Tên tú tài nghèo vừa nãy đến tố cáo tam công tử đã bị  hạ quan đã túm cổ đuổi đi rồi.”

“Làm vậy sợ chưa đủ.” Nam Cung Phóng tiếp, “Nếu hắn thực sự mang cáo trạng lên Kinh thành kiện tới Thánh thượng, tuy là không bằng không chứng, nhưng để lọt vào tai lũ ngu dân chẳng biết thật hư ấy, thì cũng gây ra ảnh hương xấu cho thanh danh của Nam Cung thế gia nhà tại hạ.”

Phí Sĩ Thanh thoáng ngẩn ra, rồi vội đáp: “Lời tam công tử thật chí lý, hạ quan nhất định sẽ nghĩ cách ngăn chặn.”

Nam Cung Phóng thản nhiên cười cười: “Đại nhân nên phái người theo dõi hắn, đề phòng hắn làm chuyện càn quấy, vi phạm pháp luật.”

Phí Sĩ Thanh lại ngớ người, vội hỏi lại: “Lẽ nào tam công tử phát hiện hắn phạm pháp sao?”

Nam Cung Phóng cười nham hiểm, thong thả đáp: “Bây giờ thì chưa, nhưng tin rằng không lâu nữa hắn sẽ làm xằng làm bậy đấy.”

Phí Sĩ Thanh gật gật đầu tỏ vẻ hiểu ý: “Tam công tử yên tâm, hạ quan sẽ phái người đi canh chừng hắn ta. Một khi phát hiện hắn làm điều gì bất chính, sẽ lập tức bắt về quy án!”

“Thế thì xin nhờ Phí đại nhân tận tâm tận lực bảo vệ an ninh trận tự cho nơi này.” Nam Cung Phóng chắp tay bái chào Phí Sĩ Thanh. Hai người nhìn nhau nở một nụ cười đầy ngụ ý, nhìn thấy trong mắt đối phương lời hứa mà mình mong muốn.

Đi tới đi lui giữa phố phường Dương Châu tấp nập người xe qua lại, Lạc Văn Giai chợt cảm thấy thành Dương Châu phồn hoa đô hội này chẳng có liên quan gì đến mình cả. Trong người gã chỉ còn hai lượng bạc vụn làm lộ phí, chút tiền mọn đó đừng nói là muốn thuê xe đến Kim Lăng, dù là đi bộ sợ rằng cũng chẳng đủ để trả tiền trọ và ăn đường.

Nhìn về phía những người tiểu thương đang rao bán hàng nơi đầu đường, lần đầu tiên Lạc Văn Giai thấy mình thật là vô dụng, ngoài một bụng đầy kinh luân, còn lại gã chẳng biết làm gì để kiếm chút tiền mưu sinh. Vừa ngước nhìn đám tiểu thương ấy mặc cả mặc lẽ, trong lòng chợt thấy ngưỡng mộ, Lạc Văn Giai đã lững thững bước qua hai con phố lúc nào chẳng hay, một cửa hiệu bán văn phòng tứ bảo bên đường thu hút lấy ánh mắt của gã. Lạc Văn Giai lập tức quay người bước vào tiệm. Một lúc sau gã bước ra, trên có thêm một lá phướn, bên trên đề rằng: Viết thư nhà, câu đối, hoành phi, vẽ tranh sơn thuỷ, vẽ chân dung.

Ngần ngừ giơ cao lá phướn ấy lên, Lạc Văn Giai cũng dần yên tâm hơn một chút. Tuy tiền dằn túi không đủ, nhưng với công phu viết chữ vẽ tranh được rèn luyện bao năm nay của gã thì vừa đi đường vừa kiếm tiền, có lẽ cũng không thành vấn đề. Tuy rằng mọi chuyện khác gã chẳng hiểu gì, nhưng đối với khả năng viết chữ và vẽ tranh của bản thân thì Lạc Văn Giai vẫn còn đủ lòng tin.

Giơ lá phướn ấy đi qua năm dãy phố, sự tự tin ban đầu của Lạc Văn Giai bắt đầu dao động. Tuy trên đường người qua kẻ lại nườm nượp như nêm, nhưng chẳng hề có ai để mắt đến lá phướn có nét chữ ưu việt của gã, lại càng chẳng ai gọi gã viết câu đối hoành phi hay vẽ tranh cả.

 

Trời tối dần, tâm trạng Lạc Văn Giai cũng dần trở nên chán nản, gã cúi đầu uể oải đi nốt qua dãy phố lớn cuối cùng, Lạc Văn Giai tuyệt vọng cuộn lá phướn lại, đang định xé nát ra thành mấy mảnh thì nghe thấy đằng sau vang lên một giọng nói nhẹ nhàng hỏi: “Tiên sinh biết vẽ tranh hả?”

“Biết, đương nhiên là biết!” Lạc Văn Giai vừa trả lời vừa quay đầu lại thì nhìn thấy sau lưng mình có một tiểu cô nương mặc váy áo màu xanh lá cây, khoảng mười bốn mười lăm tuổi, khi cười trên hai má có hai núm đồng tiền trông hết sức khả ái. Lạc Văn Giai vội mở lá phướng ra, nôn nóng giải thích: “Viết chữ, vẽ tranh đều là sở trường của ta, sáu tuổi ta đã bắt đầu luyện chữ, bảy tuổi học vẽ tranh, từ đó đến nay đến nay đã có mười mấy năm chưa hề gián đoạn! Chẳng hay cô nương muốn vẽ gì? Tranh thuỷ mặc hay họa chân dung? Hay là vẽ hoa cỏ ong bướm?”

Tiểu cô nương đó nhoẻn miệng cười, xua xua tay nói: “Không phải ta muốn vẽ, là tiểu thư nhà ta. Hôm nay tiểu thư sai ta đi tìm hoạ sư đến vẽ chân dung, không ngờ vừa ra đến cửa thì gặp ngươi, nên mới hỏi thử xem.”

“Chân dung? Không có vấn đề gì, không có vấn đề gì!” Lạc Văn Giai vội đáp: “Tiểu thư nhà cô ở đâu? Ngay bây giờ ta có thể đi vẽ cho cô ấy!”

“Có làm được không đấy?” Tiểu cô nương kia quan sát Lạc Văn Giai với ánh mắt nửa tin nửa ngờ. Lại nghe gã luống ca luống cuống giai bày: “Tuy ta chưa vẽ chân dung nhiều, nhưng hoạ công hoạ lý cũng không khác gì nhau mấy, cô không tin ta vẽ cô trước xem thử nhé?”

“Được rồi, được rồi!” Tiểu cô nương bực tức xua tay, “Để ngươi vẽ cũng được, nhưng tiểu thư nhà ta có một điều kiện.”

“Điều kiện gì?” Lạc Văn Giai vội hỏi.

“Ngươi phải bịt kín mắt để ta dẫn đi,  trên đường cấm không được nhìn trộm.” Tiểu cô nương đó giải thích, “Ngoài ra, ngươi phải phải thề là không được nói chuyện ngày hôm nay cho ai biết.”

Lạc Văn Giai ngẩn người, đây là lần đầu tiên gã nghe thấy kiểu điều kiện như thế này, nhưng rồi nghĩ lại, thầm đoán có thể đối phương là tiểu thư nhà danh giá, gia giáo nghiêm khắc, không muốn cho nam nhân lạ biết được gia thế hoàn cảnh của mình nên mới dùng đến biện pháp phức tạp này. Nghĩ đến đó gã bất giác gật đầu lia lịa nói: “Không vấn đề, không vấn đề gì, ta xin thề, tuyệt đối không nói ra chuyện ngày hôm nay.”

“Thế thì tốt! Ngươi quay người lại đây!” Tiểu cô nương nói đoạn rồi rút ra một chiếc khăn tay.

“Làm gì vậy?” Lạc Văn Giai hỏi.

“Đồ ngốc! Bịt mắt chứ làm gì!” Tiểu cô nương cười cười mắng.

Lạc Văn Giai ngoan ngoãn quay người để tiểu cô nương kia bịt mắt mình lại, sau đó để cô ta dắt tay quành qua một ngã lẽ, cuối cùng trèo lên một cỗ xe ngựa mềm mại thơm ngát. Trong tiếng giục ngựa của xa phu, cỗ xe từ từ lăn bánh, nhẹ nhàng đi qua đường phố vắng lặng. Lắc lắc lư lư, chẳng rõ đã đi được bao lâu thì dừng lại, rồi Lạc Văn Giai nghe thấy tiểu cô nương ngồi đối diện vui vẻ cất tiếng: “Đến rồi!”

Lạc Văn Giai vẫn đang bịt mắt, được tiểu cô nương kia dẫn xuống xe, sau đó đi theo cô ta qua mấy lần cửa lớn, cuối cùng dừng lại trong một căn phòng ấm áp đầy hương thơm, lúc ấy tiểu cô nương kia mới bảo: “Ngươi có thể bỏ khăn bịt mắt ra được rồi.”

Lạc Văn Giai lấy làm hiếu kỳ tháo chiếc khăn tay xuống, đợi sau khi mắt thích ứng trở lại, gã bất giác tò mò đưa mắt nhìn khắp bốn xung quanh, thì thấy mình đang đứng giữa một gian phòng reo đầy rèm hồng xanh rực rỡ. Tuy chưa vào đông nhưng trong phòng đã đốt lò sưởi hừng hực, khiến bầu không khí ấm áp như tiết mùa xuân. Trên chiếc ghế mềm cách Lạc Văn Giai độ mươi bước có một mỹ nhân yêu kiều đang nằm ngủ một cách tự nhiên. Chỉ thấy nàng ta mặc áo hồng ngoài khoác áo xanh, nét mặt sạng rỡ như hoa đào, mắt phượng đẹp mê hồn người, dung mạo diễm lệ đến kinh người. Đặc biệt là vạt áo trước ngực khẽ hé mở, khe ngực sâu hun hút khảm giữa một vùng trắng muốt như ngọc, sáng bừng lên đến độ người ta không sao mở mắt. Lạc Văn Giai vừa nhìn thấy bất giác cúi đầu đỏ mặt, không còn nhìn ngó khắp nơi nữa.

“Tiểu Thuý, đây chính là hoạ sư em tìm về đó hả?” Mỹ nhân vừa xem xét Lạc Văn Giai, vừa uể oải hỏi. Tiểu cô nương vừa đưa Lạc Văn Giai đến vội đáp: “Tiểu thư đừng thấy y còn trẻ, mà lầm, người ta đã học vẽ tranh từ năm bảy tuổi, mười mấy năm qua chưa từng gián đoạn đó.”

“Thật à?” Mỹ nhân hờ hững buông ra một tiếng, từ từ điều chỉnh lại tư thế, điềm đạm bảo, “Vậy thì để y thử đi.”

“Còn đứng đực ra đó làm gì? Mau vẽ đi!” Tiểu Thuý thấy Lạc Văn Giai vẫn đứng trơ ra đó không biết làm gì, liền thúc giục. Gã vội vàng lấy giấy bút vừa mua được ra, trải giấy lên thư án đã chuẩn bị từ trước, mài mực chỉnh bút chuẩn bị bắt đầu vẽ.

“Phải xưng hô với công tử như thế nào?” Nhân lúc Lạc Văn Giai chưa bắt đầu vẽ, người đẹp ngồi trên ghế mềm bỗng nhiên hỏi.

“Tại hạ à? Lạc Văn Giai! Chẳng hay phương danh của tiểu thư…?” Lạc Văn Giai thuận miệng hỏi, vừa nói dứt câu đã cảm thấy có chút gì đó hối hận, người ta đã làm vậy, chắc chắn là không tiện trả lời rồi, gã hỏi như vậy, quả thực là hơi quá mạo muội.

“Thiếp thân tiểu danh là Y Hồng.” Mỹ nhân khẽ cười, “Công tử đã chuẩn bị bút nghiên xong chưa? Sao còn chưa bắt đầu vẽ?”

Lạc Văn Giai đỏ mặt, vội trải giấy Tuyên ra, bất tắc dĩ lại ngẩn mặt lên nhìn kỹ dung mạo của người đẹp, rồi đưa bút lên bắt đầu vẽ. Không khí trong phòng nhất thời chìm vào tĩnh lặng, chỉ còn nghe thấy tiếng bút lông sói đi trên mặt giấy Tuyên kêu “lạo xạo” và tiếng củi gỗ thỉnh thoảng lại nổ tí tách trong lò. Trong không gian tràn ngập mùi hương thơm ấm áp, Lạc Văn Giai nghe tim mình đập “thình thịch” trong lồng ngực, nếu không phải vẽ tranh, gã thực không dám nhìn thẳng vào cặp mắt như muốn câu hồn nhiếp phách người ta ấy của Y Hồng.

Không biết mất bao nhiêu thời gian, cuối cùng Lạc Văn Giai cũng thở phào nhẹ nhõm, buông bút vươn vai, đứng dậy. Tiểu Thuý đứng lặng im bền cạnh từ nãy vội chạy đến xem, lập tức reo lên một tiếng: “Oa! Vẽ đẹp quá! Quả nhiên là không nói phét!”

Y Hồng cũng hết lời tán thưởng bức hoạ Lạc Văn Giai vừa vẽ, có điều trong mắt Lạc Văn Giai, đây vẫn không phải là bức hoạ đẹp nhất của gã, vì ánh mắt đa tình ấy của Y Hồng khiến gã không dám nhìn kỹ, càng không thể diễn tả được hết được vẻ đẹp của nàng ta. Thế nên đối với Lạc Văn Giai, đây chỉ là bức vẽ chân dung giống người mà thôi.

“Tiểu Thuý! Còn không mau mau hậu tạ Lạc công tử!” Y Hồng vừa cất tiếng gọi, Tiểu Thuý lập tức mang từ phòng trong ra một túi gấm đặt vào tay Lạc Văn Giai. Thấy chiếc túi gấm nằng nặng, Lạc Văn Giai định mở ra xem, thì liền bị Y Hồng cầm tay ngăn lại nói: “Lạc công tử, công tử phải đi khỏi đây mới có thể mở chiếc túi gấm này.”

Lạc Văn Giai lúng ta lúng túng gật đầu, bàn tay Y Hồng mềm mại ấm áp, khiến gã có cảm tưởng tim mình đập nhanh hơn. Gã định rút tay lại nhưng bàn tay lại không nghe theo sự điều khiển, dường như nó đã hoàn toàn không thuộc về gã, mà cứ cứng đờ ra ở đó. Một làn gió thơm thổi qua, lại thấy Y Hồng đột nhiên cúi người xuống, ghé miệng bên tai mình thì thầm nói: “Đồ ngốc! Thiếp thật sự có chút không nỡ để công tử đi đó!”

Lạc Văn Giai hoảng hốt lùi lại, đang định nói gì đó thì thấy Y Hồng tủm tỉm cười, quay lại dặn dò với Tiểu Thuý: “Tiễn Lạc công tử cho ta!”

Thoáng chốc sau đó, Lạc Văn Giai lại bị bịt mắt, được Tiểu Thuý đưa trở lại đầu phố lúc nãy. Lúc đó trời đã tối hẳn, xung quanh bốn bên đều không thấy một bóng người, Lạc Văn Giai đưa tay dụi dụi mắt, nghĩ lại tất cả những chuyện vừa xảy ra, cứ ngỡ như mình đang nằm mơ. May mà túi gấm trong tay vẫn còn nguyên, mà cầm lên cũng thấy khá nặng. Lạc Văn Giai vội mở ra, mượn ánh trăng xem thử,  thì thấy trong túi gấm lấp lánh ánh vàng, thì ra toàn là vàng lá.

“Thế này… thế này thì quý quá!” Lần đầu tiên Lạc Văn Giai thấy nhiều vàng lá như vậy, ngược lại còn sợ đến mức tay run rẩy, trong lòng cảm thấy có gì đó bất an, nhưng lại không biết đi đâu mà mang trả lại số vàng đó.

“Ta tạm thời cất đi đã, sớm ngày mai đi tìm, hy vọng còn nhớ được đường đi, đem trả lại cho Y Hồng cô nương.” Lạc Văn Giai tự thuyết phục mình, tuy gã rất tự tin với khả năng vẽ tranh của mình, nhưng cũng biết nó không thể đáng giá nhiều tiền như vậy.

Tìm một khách sạn có giá thấp, Lạc Văn Giai dùng chút bạc vụn còn lạ của mình thuê phòng. Vừa lên giường nằm chưa được bao lâu, thì đột nhiên nghe láng máng trong khách sạn có tiếng ồn ào hỗn loạn, rồi có người gọi cửa kêu lớn: “Dậy, dậy! Dậy hết! Kiểm tra đêm!”

Lạc Văn Giai mơ màng tung chăn dậy, mở cửa ra ngoài hỏi mấy người khách trọ khác đang ở bên ngoài: “Có chuyện gì thế?”

Một vị khách ở phòng bên đáp: “Nghe nói trong thành xảy ra một vụ án lớn, nha môn tri phủ đang lệnh cho đám bổ khoái kiểm tra các quán trọ ở khu vực này. Nhìn bộ dạng này, không chừng là vợ của tri phủ đại nhân bị đại đạo hái hoa cưỡng gian rồi.”

Mấy người khách trọ đứng bên cạnh cười phá lên, đúng lúc mấy bổ khoái đi đến. Một tên bổ đầu tướng mạo hung ác chỉ chiếc roi ngựa trong tay về phía khách trọ quát: “Tất cả đứng sát vào tường để kiểm tra, không chấp hành xem như là trộm cướp!”

Bị ngọn doi uy hiếp, chúng nhân đành ngoan ngoãn đứng dựa sát vào tường. Mấy tên bổ khoái chia nhau kiểm tra, hai tên sát người, còn lại vào các phòng trọ lục tủ bới giường tìm kiếm gì đó. Một lúc sau, một tên bổ khoái đột nhiên cầm ra một chiếc túi gấm, hưng phấn cao giọng hỏi: “Cái này của ai?”

Lúc đó trong lòng Lạc Văn Giai có dự cảm bất tường, nhưng vẫn thành thực đáp: “Của ta.”

“Hảo tiểu tử! Cuối cùng cũng tóm được ngươi rồi! Đi với bọn ta!” Một tên bổ đầu bất ngờ rút ra một đoạn dây xích sắt trói vào cổ Lạc Văn Giai lôi gã đi. Lạc Văn Giai cố sức vùng vẫy phân giải, nhưng nào phải là đối thủ của mấy bổ khoái như hổ như sói kia, trong chớp mắt gã đã bị bọn bổ khoái lôi ra ngoài. Đến khi cả bọn đi xa rồi mà mấy người khách trọ vẫn chưa có phản ứng gì, bất giác ngơ ngác hỏi nhau: “Chuyện gì thế nhỉ? Gã thư sinh đó rốt cuộc là đã phạm tội gì?”

“Thăng… đường…”

Tiếng “uy vũ” trầm trầm vang lên trong công đường, lọt vào tai Lạc Văn Giai, cảm giác hoàn toàn khác với lần trước. Chỉ thấy tri phủ Phí Sĩ Thanh được đám nha dịch và sư gia tiền hô hậu ủng chầm chậm bước ra, ung dung ngồi xuống, bất ngờ vỗ án đánh “chát” một tiếng, gằn giọng quát hỏi: “Tội phạm Lạc Văn Giai, ngươi đã biết tội chưa?”

Lạc Văn Giai tuy bị xiềng xích nhưng vẫn hiên ngang ngẩng cao đầu nhìn thẳng vào Phí Sĩ Thanh hỏi lại: “Không biết học trò đã phạm tội gì?”

Phí Sĩ Thanh nhấc chiếc túi gấm trên bàn xử án lên lạnh lùng hỏi: “Cái túi gấm này và vàng lá trong đó có phải là của ngươi?”

Lạc Văn Giai do dự một lát rồi đáp: “Đó là của một cô nương trả công học trò vẽ chân dung cho nàng ấy.”

“Hỗn láo! Ngươi tưởng rằng bản quan không hiểu thư hoạ sao?” Phí Sĩ Thanh vỗ bàn cười gằn nói, “Ngươi nghĩ mình là Đường Bá Hổ hay là Mạnh Hạo Nhiên? Tuỳ tiện vẽ một bức hoạ có thể bán được từng ấy vàng lá hay sao?”

“Học trò cũng biết bức hoạ mình vẽ không đáng giá nhiều tiền như thế,” Lạc Văn Giai biện bạch, “Nên đang định sáng sớm ngày mai đem đi trả lại cô nương ấy.”

“Cô nương ấy tên là gì? Nhà ở đâu?” Phí Sĩ Thanh đột nhiên quát hỏi.

Lạc Văn Giai thần người, chợt nghĩ đến lời thề lúc đầu với Tiểu Thuý, lưỡng lự một lúc, gã đành thành thực trả lời: “Học trò không thể nói. Học trò đã từng đáp ứng với cô nương đó rằng sẽ không nói tên nàng ấy với người khác, hơn nữa tôi cũng không biết chỗ nàng ấy ở đâu.”

“Hắc hắc! Càng thêu dệt càng lung tung!” Phí Sĩ Thanh liên tiếp cười gằn, “Ngươi đã không nói được họ tên nàng ta, lại không biết nàng ta ở đâu, làm sao vẽ tranh được? Một bức tranh làm sao có thể đáng giá từng ấy vàng lá chứ? Xem ra ngươi chưa thấy quan tài chưa nhỏ lệ. Người đâu! Đại hình chờ lệnh!”

Bọn nha dịch ở hai bên nhất tề hô ứng, lao đến như lang như hổ, túm lấy cánh tay Lạc Văn Giai rồi vật ngửa ra đất. Chợt nghe Lạc Văn Giai kêu lớn: “Ngừng tay! Các ngươi ai dám dùng đại hình?”

Khí thế của Lạc Văn Giai đã trấn áp mấy tên nha dịch, cả đám bất giác ngừng tay lại, đưa mắt nhìn tri phủ đại nhân. Lại thấy Phí Sĩ Thanh cười lạnh lùng đáp: “Chứng cứ rành rành, ngươi lại không khai nhận, tại sao không thể dùng đại hình?”

“Chứng cứ ở đâu?” Lạc Văn Giai chất vấn lại.

“Ngươi không nói được nguồn gốc của cái túi gấm vàng lá này, đó chính là chứng cứ!” Phí Sĩ Thanh đáp.

“Cho dù có như thế, ông cũng không thể dùng đại hình với ta!” Lạc Văn Giai muốn giữ lời hứa, không thể nói ra tên họ của vị tiểu thư đã tặng vàng kia, đành hy vọng có thể nhờ người tìm ra vị tiểu thư đó, để nàng ta hoặc Tiểu Thuý đứng ra làm chứng cho mình. Nhưng lúc này, gã cũng chỉ có thể tạm thời hàm oan, cũng may gã vẫn có một lá bài hộ thân cuối cùng. Lạc Văn Giai hiên ngang đáp: “Ta đây có công danh, theo Đại Minh luật lệnh, ngài không thể dùng hình cụ với ta.”

Phí Sĩ Thanh cười lạnh lùng: “Không ngờ ngươi còn tinh thông luật pháp Đại Minh, giỏi lắm, bản quan sẽ y theo luật pháp Đại Minh, tạm thời giam ngươi vào ngục. Sớm ngày mai bản quan sẽ gửi thư cho Ty Học Chính tước công danh của nhà ngươi, rồi sẽ khiến ngươi cúi đầu nhận tội! Bãi đường!”

Đám nha dịch nhất tề hô vang một tiếng rồi chẳng nói chẳng rằng cứ thế gông Lạc Văn Giai lôi đi. Đợi đến khi đám nha dịch đi hết, sau bức bình phong liền có có hai thanh niên chậm dãi bước ra, một là Nam Cung Phóng ôn nhu văn nhã, người còn lại là Đường Tiếu mặt mày âm hiểm. Phí Sĩ Thanh vội chắp tay bái chào: “Xin tam công tử và Đường công tử yên tâm, đợi sau khi tước đi công danh của tên tiểu tử đó, bản quan sẽ có thể lập tức hỏi tội hắn.”

Nam Cung Phóng nở một nụ cười đầy ngụ ý: “Đại nhân nhất định phải chấp pháp theo phép công, nhất định không được để cho tội phạm nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật đó!”

“Nhất định, nhất định! Tam công tử xin cứ yên tâm!” Phí Sĩ Thanh vội luống cuống đáp ứng rồi cùng sư gia cung kính tiễn Nam Cung Phóng và Đường Tiếu ra cửa. Mấy người chắp tay chào nhau xong xuôi, Đường Tiếu mới không nhịn nổi lầm bầm cằn nhằn: “Ta không hiểu, đối phó với một tên tú tài nghèo rớt mùng tơi, không thanh không thế, tại sao công tử phải làm phiền phức như vậy, cứ cho nó một nhát thì không xong sao? Thành Dương Châu lớn như vậy cho dù có bỗng nhiên mất đi một thằng học trò nghèo sợ rằng cũng chẳng ai chú ý đến.”

Nam Cung Phóng cười khoan thai đáp: “Muốn cho hắn tự nhiên biến mất thì rất dễ, nhưng hắn là niềm hy vọng và kiêu hãnh của Lạc gia trang, công tử nói xem nếu như hắn dính vào chuyện kiện cáo, Lạc Tông Hàn liệu có dốc toàn lực cứu nó không?”

“Đó là điều hiển nhiên.” Đường Tiếu đáp.

“Cứu người thì có cần dùng tiền không?” Nam Cung Phóng lại hỏi.

Đường Tiếu sực hiểu ra, gật đầu lia lịa đáp: “Hiểu rồi, hiểu rồi. So với người sống thì phần mộ của tổ tiên cũng không quan trọng nữa rồi. Lạc Tông Hàn nếu muốn cứu tên tú tài kia thì chỉ còn cách bán đi gia nghiệp của tổ tiên mà thôi. Chiêu này của tam công tử thật hơi giống đám phỉ đồ, bắt con tin rồi đòi tiền chuộc người nhà, lại mượn bàn tay đường đường chính chính của quan phủ. Kế này của tam công tử thật âm hiểm, âm hiểm! Bái phục, bái phục!”

Nam Cung Phóng cười nhạt: “Lạc Tông Hàn thế nào cũng không chịu hợp tác, lẽ nào chúng ta có thể giết hết người trong Lạc giai trang? Lạc gia trang có chết một hai người thì không thành vấn đề gì, nhưng nếu chết nhiều thêm nữa thì đám hiếu sự trong võ lâm tự nhiên sẽ liên tưởng đến Nam Cung thế gia, về sau chúng ta làm sao có thể đứng vững trên giang hồ đây? Nam Cung thế gia dẫu sao cũng là danh gia vọng tộc hang trăm năm nay, lễ nghĩa truyền gia chứ không phải là phường hào cường cướp bóc. Hôm nay dê béo đả tự tìm đến tận cửa, chúng ta nếu không lợi dụng, há chẳng phải là có lỗi với lòng nhiệt tình của họ sao?”

Hai người nhìn nhau cười lớn, khiến cho chó hoang ở đâu đó cũng sủa lên hưởng ứng. Tiếng cười tắt dần, hai người nhảy lên ngựa, chầm chậm đi sánh vai. Đi chưa được bao xa, bỗng nhiên Đường Tiếu hỏi nhỏ: “Tam công tử, công tử có nghe giang hồ đồn đại chuyện Thiên Môn mật điển đã tái xuất giang hồ hay không, tương truyền, ai có được nó ắt có thể mưu thiên hạ.”

Nam Cung Phóng cười gằn đáp: “Hừm! Ba cái truyền thuyết hoang đường đó tuyệt đối không đáng tin.”

“Cũng phải.” Đường Tiếu hùa theo mà trong lòng thì không nghĩ vậy, “Thiên Môn mật điển, xưa nay chỉ là truyền thuyết trong giang hồ, từ trước tới giờ chưa có ai tận mắt nhìn thấy. Có lẽ trên đời này căn bản không có thứ gì thần kỳ như thế đâu.”

Hai người vừa đi vừa nói chuyện, dần biến mất trong màn đêm. Trên trời, một đám mây đen che mất vầng trăng vốn đã ảm đạm mông lung, khiến thế giới càng lúc càng trở nên hỗn độn u ám.

Ngoài cửa sổ mặt trời đã lên cao, trong ngục Lạc Văn Giai khổ não chằn chọc cả đêm nằm chờ quan phủ gọi lên xét sử, hòng sớm ngày trả lại sự thanh bạch cho mình. Nào ngờ đã hỏi thăm ngục tốt nhiều lần, đối phương đều tứ bực nói với gã, cứ yên tâm mà đợi. Lạc Văn Giai trong lòng như có lửa đốt đợi đến giữa trưa, cuối cùng cửa ngục cũng mở ra, nhưng người bước vào không phải đám nha dịch lôi người đi thẩm vấn mà là người mẹ già nét mặt tiều tuỵ và Triệu Hân Di đầy vẻ sầu não.

“Mẹ! Di nhi! Sao hai người lại đến đây?” Lạc Văn Giai hết sức kinh ngạc.

Chỉ thấy mẫu thân gã kìm nén dòng nước mắt, chua chát nói: “Nghe nói con bị vướng vào vòng lao lý, nên sáng sớm nay Di nhi đã lén lút trốn nhà ra đưa mẹ lên đây thăm con. Con à, rốt cuộc con đã phạm tội gì, tại sao lại bị quan phủ bắt giam?”

Lạc Văn Giai thấy cả hai đều kinh hoảng không yên, bèn cố làm ra vẻ ung dung cười cười an ủi: “Hai người chớ nên lo lắng, chỉ là nhầm lẫn nhất thời thôi, tin rằng chẳng mấy chốc sự thật sẽ được sáng tỏ. Mẹ! Mẹ lại không hiểu rõ phẩm cách của con sao, lẽ nào mẹ cũng không tin con?”

“Con ngốc à!” Mẹ gã lắc đầu than thở, “Con nào có biết được lòng người hiểm ác, thế đạo tối tăm. Cứ cho là con trong sạch, nhưng khi đã vào ngục, không chết thì cũng bị hành hạ đến tàn tật.”

Lạc Văn Giai gượng cười đáp: “Làm gì có chuyện ghê gớm thế?” Đại lao  của quan phủ đâu phải là địa ngục. Hơn nữa con chỉ bị tạm giam, chỉ cần điều tra rõ sự việc thì không có việc gì đâu. Phải rồi, tốt nhất là hai người đi tìm một cô nương tên là Y Hồng, nàng ta còn có một nha đầu tên là Tiểu Thuý. Chỉ cần tìm được họ ra làm chứng thì có thể trả lại sự trong sạch cho con rồi.”

“Họ ở đâu?” Người mẹ vội hỏi.

“Con chỉ nhớ là ở phía Nam thành, còn cụ thể ở chỗ nào thì không rõ lắm.” Lạc Văn Giai đáp.

“Chàng làm sao lại quen biết họ?” trong mắt Triệu Hân Di thoáng hiện lên sắc hoài nghi hỏi.

Lạc Văn Giai vội kể lại mọi chuyện từ khi ngẫu nhiên gặp Tiểu Thuý đến lúc vẽ chân dung cho Y Hồng và nhận được túi gấm đầy vàng lá kia. Mẹ gã nghe xong không khỏi dẫm chân thở dài than: “Con ngốc quá! Con đã bị người ta lập kế hãm hại, còn muốn tìm họ ra làm chứng cho con nữa sao?”

“Sao lại như thế được?” Lạc Văn Giai thoáng biến sắc, nhưng rồi vẫn cãi, “Hai vị cô nương đó xem ra không giống người xấu, hơn nữa con chưa hề quen biết họ, làm sao họ có thể hại con chứ?”

Người mẹ thở ngắn thở dài đáp: “Con ngây thơ làm sao biết lòng người hiểm ác? Cứ cho là hai cô nương đó với con không thù không oán thì lẽ nào không được kẻ thù của nhà ta thuê mướn sao? Không tại sao hành tung lại thần bí như vậy? Mà lại hào phóng đến mức dùng vàng lá để trả công vẽ tranh cho con?”

Cuối cùng sắc mặt Lạc Văn Gia cũng tái nhợt đi, nghĩ lại toàn bộ các tình tiết ly kì mình đã trải qua ngày hôm trước, thì càng nghĩ càng thấy giống như một cạm bẫy được xắp sếp tỉ mỉ, nhưng gã vẫn không dám tin hai cô nương kia lại là kẻ lừa đảo, lại không ngừng trấn an mẹ: “Không thể! Nhìn họ thế nào cũng không giống kẻ lừa đảo.”

“Nếu nhìn bề ngoài mà cũng nhận ra được là kẻ lừa đảo thì chúng còn lừa lừa được ai?” Mẹ gã lắc đầu than thở, “Con trước nay đều đối tốt với người ta, cũng chưa từng tranh giành với ai, chẳng có cừu gia nào lại tốn nhiều công sức như vậy để hại con. Chỉ vì con muốn bảo vệ cơ nghiệp của tổ tiên mà muốn tố cáo tam công tử nhà Nam Cung, sợ rằng đã đắc tội với người không nên đắc tội rồi. Con trai, lẽ nào con đã quên lời người xưa dạy: kẻ nghèo không nên đấu với người giàu, người giàu không nên tranh giành với quan phủ rồi sao? Huống hồ đến cả quan phủ cũng phải nể mặt Nam Cung thế gia mấy phần. Lạc gia trang nhà chúng ta sao có thể tranh đấu với Nam Cung thế gia nhà người ta được? Con chịu khó ở trong ngục vài ngày, đợi mẹ đi cầu xin quan phủ, cầu xin Nam cung tam công tử, nhất định sẽ xin cho con bình an trở về.”

“Mẹ đừng đi xin xỏ người khác!” Lạc Văn Giai vội đáp, “Con đây là người thanh bạch, lẽ nào sợ người khác ám hại? Con không tin trời xanh không có mắt, không còn có đạo lý trên đời mà đổi trắng thay đen như thế được!”

Mẹ gã lại thở dài, chán nản bảo: “Sớm muộn gì conn cũng sẽ hiểu, giờ con không nghỉ ngợi gì nữa, càng không được nhắc đến chuyện cáo trạng. Mấy ngày nữa mẹ và Hân Di lại đến thăm con.” Nói đoạn quay sang nói với Triệu Hân Di, “Chúng ta đi!”

Triệu Hân Di đưa đưa giỏ thức ăn trong tay vào, lưu lưu luyến luyến nhìn Lạc Văn Giai không muốn rời đi, rơi lệ nói: “Văn Giai ca, huynh không cần lo lắng, muội và Lạc phu nhân nhất định sẽ cứu huynh về.”

“Huynh lo lắng gì chứ?” Lạc Văn Giai gượng cười đáp, “Huynh chẳng làm việc gì xấu, huynh không tin quan phủ có thể định tội được huynh.”

Nhìn mẹ và Triệu Hân Di ra khỏi cửa, nét tự tin trên mặt Lạc Văn Giai cũng dần mất đi. Mặc dù chưa từng trải đường đời hiểm ác, nhưng đọc trong các điển tịch sử sách, gã cũng hiểu được không ít, có điều, Lạc Văn Giai vẫn không tin rằng những việc ấy đang giáng xuống đầu gã. Say sưa hứng thú ăn bánh ngọt do Triệu Hân Di mang tới, Lạc Văn Giai thản nhiên ngồi đợi những vận hạn đang đến với mình.

Nam Cung thế gia tam công tử là người nổi tiếng ở thành Dương Châu nên muốn tìm y cũng không hề khó khăn. Khi Lạc phu nhân được Triệu Hân Di dẫn đi, tất tả chạy đến Nhất Phẩm Lâu, từ đằng xa đã nhìn thấy hai vị công tử trẻ tuổi đang ngồi đối ẩm. Chỉ nhìn nhác qua Lạc phu nhân đã nhận ra vị công tử nho nhã điềm đạm, mặt mũi thanh tú chính là người nổi tiếng phong lưu hào phóng ở Dương Châu, Nam Cung thế gia tam công tử, Nam Cung Phóng.

Đường Tiếu cũng trông thấy Lạc phu nhân và Triệu Hân Di đang dìu nhau đi tới, vội đưa cánh tay hích nhẹ vào người Nam Cung Phóng nói nhỏ: “Kìa, đóa lan rừng!”

Nam Cung Phóng nhìn theo hướng ánh mắt Đường Tiếu, liền nhận ra ngay người con gái đang thướt tha đi đến chính là thiếu nữ vô danh mấy ngày được y gọi là “đoá lan rừng” ở Lạc gia trang, hai mắt y bất giác sáng bừng lên, nhưng thân hình vẫn không nhúc nhích, ngược lại còn đưa tay nâng ly rượu đang đặt trên bàn lên, dường như không hề chú ý đến sự xuất hiện của nàng.

“Xin hỏi vị công tử này có phải là Nam Cung tam công tử?” Phụ nhân được thiếu nữ ấy dìu đỡ đột nhiên cất tiếng hỏi.

“Chính là ta. Không biết phu nhân là…?” Nam Cung Phóng thoáng lộ vẻ ngạc nhiên. Kỳ thực y đã sớm biết phụ nhân dung mạo đoan trang trước mặt chính là mẫu thân của Lạc Văn Giai, cũng chính là y đã phái người truyền tin cho Lạc phu nhân, báo Lạc Văn Giai đang bị quan phủ bắt giam trong ngục.

“Tam công tử!” Lạc phu nhân bất ngờ quỳ xuống, “Lạc Văn Giai con trai tôi, tuổi nhỏ không biết trước sau, đã mạo phạm công tử, cầu xin công tử đại nhân đại lượng mà tha cho nó!”

“Phu nhân làm gì vậy!” Nam Cung Phóng vội đưa tay đỡ Lạc phu nhân đứng dậy, biết rồi mà vẫn cố tình hỏi, “Phu nhân là mẫu thân của Lạc tú tai?”

“Vâng chính thiếp thân!” Lạc phu nhân vội đáp, “Con trai tôi đã mạo phạm đến công tử, thực tội đáng muôn chết! Hy vọng công tử thương tình thiếp thân tuổi già không có người nương tựa, giơ cao đánh khẽ tha cho nó một con đường sống. Thiếp thân sẽ cố hết sức đi cầu xin thúc công, để ông ấy nhượng lại Lạc gia trang cho công tử.”

“Phu nhân nói vậy là sai rồi!” Nam Cung Phóng nghiêm mặt nói, “Ta và lệnh lang tuy có chút xung đột nho nhỏ, nhưng không đến mong cậu ta chết sớm, lại càng không phải vì chuyện Lạc gia trang mà coi lệnh lang là kẻ thù. Hơn nữa ta không có năng lực chi phối được quan phủ như thế, phu nhân nói như vậy, hình như là ta đang gây khó dễ cho lệnh lang vậy, như thế há không phải oan uổng cho ta lắm sao?”

Lạc phu nhân vội cuống lên nói: “Thiếp thân ăn nói hàm hồ, mong công tử thứ tội. Xin công tử giúp đỡ cứu con trai tôi, thiếp thân nhất định bảo người trong gia tộc nhượng lại Lạc gia trang.”

Nam Cung Phóng xua tay, thở dài đáp: “Ta nghe nói con trai phu nhân vừa đến Dương Châu đã dính vào chuyện kiện cáo, sự tình cụ thể thế nào thì không được rõ. Nhưng phu nhân đã nhờ vả, ta sẽ đến tri phủ nha môn hỏi thăm giúp vậy. Nhưng chuyện này với chuyện Lạc gia trang là hai chuyện hoàn toàn khác nhau, phu nhân không thể ghép lại với nhau được. Bất luận là Lạc Tông Hàn có bán Lạc gia trang cho Nam Cung gia hay không, ta vẫn sẽ tận lực giúp đỡ lệnh lang.”

“Đa tạ Nam Cung công tử!” Nghe thấy lời bảo đảm của Nam Cung Phóng, Triệu Hân Di trong lòng đầy cảm kích, bất giác cúi người vái lạy. Lúc đó nàng cũng đã nhận ra vị công tử áo trắng tao nhã trước mặt chính là người không lâu trước đây phi ngựa suýt đâm phải mình.

“Cô nương không cần đa lễ!” Nam Cung Phóng vội đáp lễ, sau đó giả bộ như vừa mới nhận ra đối phương, kinh ngạc nói: “Thì ra là cô nương! Lần trước, tại hạ thiếu chút nữa là phi ngựa xô vào cô nương, chưa kịp tạ lỗi thì cô nương đã đi xa, trong lòng cứ canh cánh không yên. Hôm nay được gặp lại coi như đã thoả được tâm nguyện rồi!” Dứt lời, liền đứng lên chắp tay, điệu bộ hết sức thành khẩn.

“Xin công tử đừng khách sáo!” Triệu Hân Di muốn tránh đi nhưng lại sợ thất lễ, tức thì liền lóng ngóng tay chân. Lúc này, ấn tượng trong lòng nàng đối với Nam Cung Phóng đã hoàn toàn thay đổi, y hoàn toàn không hề giống như tên ác bá hoành hành khắp đất Dương Châu đã hãm hại Văn Giai ca ca của nàng nữa.

“Không ngờ lại khéo như vậy, cô nương còn là muội muội của Lạc tú tài, coi như vì nể mặt cô nương, ta nhất định sẽ dốc toàn lực giúp cô nương cứu ca ca cô nương ra khỏi ngục.” Nam Cung Phóng thành khẩn nói. Y thấy Triệu Hân Di kiểu thiếu nữ chưa chồng, lại hết sức thân mật với Lạc phu nhân, liền nghĩ nàng là muội muội của Lạc Văn Giai.

“Tôi… không phải…” Gương mặt Triệu Hân Di tức thì đỏ ửng lên, nhưng lại không có cách gì giải thích, đành nấp ra sau người Lạc phu nhân. Nam Cung Phóng thấy vậy liền đoán được sự tình bên trong, trong lòng lập tức cảm thấy xáo trộn, nhưng ngoài mặt vẫn không tỏ thái độ gì, còn vui vẻ nói: “Thì ra cô nương là nương tử tương lai của Lạc tú tài, thất kính thất kính! Cô nương yên tâm, ta nhất định sẽ bảo lãnh người trong lòng của nàng ra, nàng và Lạc phu nhân cứ yên tâm về nhà chờ tin tốt lành đi.”

Đưa mắt nhìn theo hai người ra khỏi cửa, nụ cười trên môi Nam Cung Phóng dần trở nên lạnh lùng. Đường Tiếu ở bên cạnh cười cười nói: “Chiêu này của công tử thật hữu dụng, tin rằng phen này Lạc Tông Hàn sớm muộn gì cũng phải đem bán Lạc gia trang để đổi lấy tên tú tài đen đủi kia. Chúng ta giờ lại bảo Phí tri phủ gây thêm chút áp lực đối với tên tú tài vô dụng đó, tuỳ tiện định ra một tội danh mà hù doạ người nhà hắn vậy.”

“Ta thay đổi chủ ý rồi!” Nam Cung Phóng nhìn bóng hình Triệu Hân Di đang đi xa dần, lạnh lùng nói, “Ta muốn giết hắn!”

“Sao vậy?” Nét mặt Đường Tiếu thoáng lộ nét ngạc nhiên, “Chúng ta không cần Lạc gia trang nữa sao?”

“Ta vừa muốn Lạc gia trang lại vừa muốn giết hắn.” Lời Nam Cung Phóng vừa dứt thì ly rượu trong tay y vỡ tan.

Đường Tiếu nhìn theo ánh mắt của Nam Cung Phóng, lập tức sực hiểu ra, rồi bất giác nở một cười ám muội nói: “Khẩu vị của tam công tử cũng hay thật! Không biết khi nào tiểu đệ mới có thể được uống rượu mừng của tam công tử đây?”

“Không phải đợi lâu đâu.” Nam Cung Phóng nói rồi rút chiếc khăn gấm, cẩn thận lau rượu dính trên các kẽ tay,đoạn nhìn bàn tay trắng muốt thon dài của mình, lạnh lùng nói: “Lạc Văn Giai, ngươi không có cái phúc phần đó, mà lại muốn hưởng phúc lớn như vậy, thì sẽ tổn thọ đấy!”

“Giải phạm nhân lên công đường!” Cùng với tiếng quát của Phí Sĩ Thanh, mấy tên nha dịch lập tức lôi Lạc Văn Giai vào công đường. Phí Sĩ Thanh vỗ án  quát: “Quỳ xuống!”

“Ta đường đường là tú tài, gặp quan không phải quỳ!” Lạc Văn Giai vừa nói hết câu đã nhìn thấy Phí Sĩ Thanh cười gằn ném một tờ công hàm xuống dưới công đườg: “Ti Học Chính đã có công hàm trả lời, vì án tình trọng đại, để tiện cho việc bản quan điều tra xử án, tạm thời tước đi chức danh tú tài của Lạc Văn Giai!”

Lời vừa dứt, hai tên nha dịch đứng cạnh liền vung tay giơ gậy đánh xuống khuỷu chân Lạc Văn Giai. Lạc Văn Giai kêu lên một tiếng đau đớn, không tự chủ được quỳ gục xuống. Lạc Văn Giai đau đến choáng váng cả người, lại thấy Phí Sĩ Thanh ném xuống một mảnh lệnh bài: “Trước tiên đánh cho bản quan 40 trượng, cho hắn bớt thói kiêu ngạo đi.”

Đám nha dịch đồng thanh ứng tiếng, thành thục ấn Lạc Văn Giai nằm bẹp dưới đất. Hai tên nha dịch phụ trách hành hình đứng hai bên giơ gậy đánh xuống, quật mạnh vào mông, vào đùi trên Lạc Văn Giai, chỉ sau hai ba cái đã thấy gã rách da lộ thịt, máu chảy be bét. Lạc Văn Giai luôn miệng kêu gào thảm thiết, chẳng được mấy chốc thì ngất đi. Chẳng biết là ngất đi bao lâu thì lại bị dội nước lạnh cho tỉnh lại, bên tai lờ mờ nghe thấy tiếng quát hỏi văng vẳng: “Ngươi nhận hay không nhận?”

“Ta, ta không làm gì, ngài, ngài muốn ta nhận cái gì?” Lạc Văn Giai thều thào đáp. Lời vừa dứt liền nghe thấy trên công đường lại vang lên tiếng thét hỏi: “Vẫn còn cãi bướng, giáp côn[1] chờ lệnh!”

Cánh tay bị kéo lên, ý thức Lạc Văn Giai đã có phần hốt hoảng, nhưng lực ép của giáp côn đã ép lên ngón tay, cảm giác đau đớn thấu tim ấy như thể bị một mũi kim nhọn đâm vào óc. Lạc Văn Giai nghiến răng toé máu, ngửa mặt lên trời kêu lớn: “Ông đánh chết ta cũng không nhận.”

“Tốt lắm! Ta chỉ e là ngươi nhận tội quá nhanh, không nếm đủ những loại hình cụ của bản phủ.” Phí Sĩ Thanh nói đoạn, lại rút thêm một rút một tấm lệnh bài ném xuống, “Tiên hình[2] chờ lệnh.”

Lạc Văn Giai trong cơn đau đớn và hôn mê lẫn lộn, cũng không biết mình đã phải chịu bao nhiêu hình phạt, càng không biết đã bị ném trở lại ngục từ bao giờ. Gã chỉ biết nghiến chặt răng không nói một lời nào, trước sau kiên định tin vào một thân chính khí có thể chiến thắng tất cả tà ác và tăm tối.

Khi gã tỉnh lại sau lần hôn mê dài nhất, thấy mình đang nằm trong ngục tối, dưới người toàn là rơm rạ, những mảng máu khô đã làm rơm dạ dính bết lại với nhau. Bên tai gã lại văng vẳng vang lên tiếng gọi bi thiết mà quen thuộc: “Văn Giai ca, ca ca nhất định phải tỉnh lại!”

Lạc Văn Giai cố hết sức mở mắt ra thì thấy ngoài cửa ngục, mẹ gã và Triệu Hân Di đã khóc hết nước mắt. Gã gắng gượng cười cười với họ, nhưng chỉ thấy lực bất tòng tâm. Lấy hết toàn bộ sức lực, cuối cùng gã cũng rít được qua kẽ răng một câu an ủi người thân, đồng thời cũng là an ủi chính mình: “Đừng lo! Tên cẩu quan đó không dám đánh chết con đâu, bằng không hắn cũng đừng hòng giữ lại được cái mũ ô sa trên đầu. Chỉ cần con không nhận, hắn cũng không thể nào vu hãm cho con được.”

“Văn Giai ca! Huynh, huynh tỉnh lại rồi!” Triệu Hân Di vừa vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, reo lên, ôm lấy Lạc phu nhân khóc oà. Tiếc rằng ba người chưa nói được mấy câu, cai ngục đã ở bên cạnh bực tức thúc dục: “Thời gian đã hết, người nhà phạm nhân mau rời khỏi đây.”

Lạc phu nhân và Triệu Hân Di cứ ngần ngừ mãi chẳng muốn đi, nhưng hai tên ngục tốt chẳng nói chẳng rằng, đã kéo hai người ra khỏi phòng giam. Lạc Văn Giai nhìn theo bóng họ, bất giác trào lên dòng lệ uất ức.

Trước khi Lạc phu nhân và Triệu Hân Di xuất hiện trước mặt mình lần thứ hai, Nam Cung Phóng không hề bất ngờ. Tất cả đều xảy ra đúng như trong kế hoạch, trong lòng y tự nhiên nảy sinh cảm giác thành công khi mình có thể tuỳ tiện đùa giỡn với vận mạng của kẻ khác. Nhưng y không để lộ sự đắc ý trong lòng mình thể hiện ra nét mặt, ngược lại còn làm ra vẻ bi thương nói: “Lạc Phu nhân! Triệu cô nương! Thật là hổ thẹn, do vụ án của Lạc tú tài can thiệp quá lớn, trong thời gian ngắn, ta cũng chẳng biết làm thế nào. Nhưng hai người cứ yên tâm, ta nhất định sẽ tìm mọi cách để bảo lãnh cho cậu ấy ra nhanh nhất.”

“Tam công tử!” Lạc phu nhân “thụp” một tiếng quỳ xuống đất, hai tay dâng tờ khế ước lên trước mặt Nam Cung Phóng, khóc sướt mướt cầu xin, “Xin công tử mau chóng cứu con trai tôi ra khỏi ngục, khế ước bán đất của Lạc gia trang đều ở cả  đây, chúng tôi không dám đòi thêm đồng nào nữa, chỉ cầu xin công tử giúp con trai tôi được về!”

“Phu nhân làm gì vậy?” Nam Cung Phóng tỏ vẻ không vui: “Phu nhân coi Nam Cung Phóng ta là loại người gì?”

“Xin tam công tử nhận lấy bản khế ước bán đất, bằng không lão thân chỉ còn cách chết trước mặt công tử thôi!” Lạc phu nhân quyết liệt nói. Triệu Hân Di cũng quỳ phục xuống, khóc lóc vái lạy cầu xin: “Công tử! Cầu xin công tử cứu lấy Văn Giai ca!”

“Đứng dậy, đứng dậy! Hai người mau đứng dậy!” Nam Cung Phóng làm ra vẻ luống cuống chân tay, luôn miện thúc giục. Thấy thái độ kiên quyết của Lạc phu nhân, y đành miễn cưỡng nhận lấy tờ khế ước bán đất: “Lạc phu nhân đã kiên trì như vậy, ta tạm thời nhận lấy tờ khế ước này vậy. Đợi hai người bình tĩnh trở lại, ta sẽ trả lại. Ồi! Hiện lệnh lang vẫn hãm thân chống lao ngục, ta còn câm trí nào mà bàn chuyện làm ăn chứ? Chỉ tiếc Lạc tú tài giờ không tin Nam Cung mỗ, không thì ta có thể đến gặp, bảo cậu ấy làm theo lời ta dặn thì nhất định có thể sớm ngày rửa sạch oan khuất.”

Triệu Hân Di nghe vậy, vội mở cổ áo, tháo ra một mặt dây làm bằng đá vũ hoa, cẩn thận đưa đến trước mặt Nam Cung Phóng nói: “Xin công tử cầm viên đá vũ hoa này đến gặp Văn Giai ca, đây là quà huynh ấy tặng tôi. Huynh ấy chỉ cần nhìn thấy viên đá vũ hoa này, nhất định sẽ tin công tử.”

“Thế thì tốt rồi!” Nam Cung Phóng cả mừng, nhận lấy viên đã vũ hoa nói, “Hai người cứ yên tâm về chờ tin vui của ta đi!”

Tiễn hai người kia ra cửa, Nam Cung Phóng bất giác đưa viên đá vũ hoa trong tay mình lên quan sát kỹ lưỡng, chỉ thấy trên bề mặt óng ánh trắng muốt như ngọc của nó có một đường hoa văn tự nhiên, rất giống với chữ “tâm” viết theo lối thảo. Giữa viên đá có khoan lỗ nhỏ, một sợi dây đỏ xuyên qua tạo thành một chiếc vòng cổ . Tuy viên đá này chẳng đáng một xu nhưng cũng rất hiếm gặp. Nam Cung Phóng đắc ý đưa viên đá lên mũi hít ngửi, lờ mờ cảm nhận được mùi u hương còn sót lại. Y cẩn thận cất viên đá đi, rồi cao giọng gọi: “Người đâu!”

Một tên tuỳ tùng nghe tiếng chạy vào, lại thấy Nam Cung Phóng dặn: “Chuyển lời của ta đến Phí tri phủ, bảo lão không cho bất cứ ai vào thăm Lạc Văn Giai.”

Bạn đã đọc hết các phần đã được đăng tải.

⏰ Cập nhật Lần cuối: Jul 15, 2011 ⏰

Thêm truyện này vào Thư viện của bạn để nhận thông báo chương mới!

Thiên Môn Công TửNơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ