Pháp thuật Septimus Heap post by minhvietsubin

1.4K 7 0
                                    

Chương 1: Có cái gì đó trong tuyết

Silas Heap kéo áo chùng sát vào người để chống chọi với tuyết. Cả một quãng đường dài đi bộ xuyên qua cách rừng, và ông buốt thấu tới tận xương. Nhưng trong mấy túi áo, ông đã có được thảo dược mà bà lang Galen bốc để ông mang về cho Septimus, đứa bé mới sinh được vài ngày của ông.
Silas về gần tới Lâu đài, và ông đã có thể trông thấy ánh sáng thấp thoáng qua những tán cây do nến hắt ra từ cửa sổ của những tòa nhà cao, hẹp, co cụm dọc theo các bức tường thành bao bên ngoài. Đó là một đêm dài nhất trong năm, và nến được thắp cho tới tận bình mình, để xua không cho bóng tối lại gần. Silas vẫn luôn yêu thích được đi bộ như thế này về Lâu đài. Vào ban ngày thì cánh rừng chẳng hề đáng sợ, và ông thích cuộc đi bộ yên bình, xuyên qua con đường mòn hẹp tí, dặm nối dặm len lỏi qua rừng cây rậm rập. Giờ ông đã gần ra tới bìa cánh rừng, những cây cao bắt đầu thưa dần, và khi con đường bắt đầu đổ dốc xuống thềm thung lũng, Silas đã có thể trông thấy toàn cảnh Lâu đài dàn trải ra trước mắt mình. Những bức tường cổ kính ôm chặt lấy con sông rộng, khúc khủyu, ngoằn ngoèo uốn quanh những cụm nhà lộn xộn. Mọi ngôi nhà đều sơn màu rực rỡ, và những căn nhà đâu mặt về hướng Tây trông như thể đang bốc cháy khi cửa sổ của chúng đón những tia nắng mặt trời cuối cùng của mùa đông.
Lâu đài thoạt tiên vốn là một ngôi làng nhỏ. Do ở kề bên cánh rừng, nên dân làng phải xây dựng lên những bức tường đá cao để phòng chống bọn chồn gu-lô và bọn pháp sư, phù thủy - cái bọn chẳng nghĩ đến gì ngoài chuyện bắt trộm cừu, gà và đôi khi cả con cái của dân làng. Càng thêm nhiều nhà mới mọc lên, thì nhừng bức tường càng được mở rộng ra, đồng thời một hào nước sâu được đào quanh tường để cho tất cả mọi người đều cảm thấy an toàn.
Chẳng bao lâu sau, Lâu đài đã thu hút những nghệ nhân tài hoa từ các làng khác về. Nó phát triển và trù phú, đến nỗi cư dân bắt đầu không còn đủ chỗ để ở, và một người nào đó quyết định phải cho xây khu Mở Rộng. Khu Mở Rộng, nơi Silas, Sarah và các con trai của họ sống, là một tòa nhà bằng đá khổng lồ, vươn thẳng lên dọc theo bờ sông. Nó trườn suốt ba dặm dọc theo bờ sông rồi quành trở vào Lâu đài, và là một nơi nhộn nhịp, ồn ào, chi chít những đường ngang ngõ tắt, những hành lang, những xưởng may nhỏ, trường học, và cửa tiệm xen lẫn với những phòng ở của các hộ gia đình, những khu vườn bé tí xíu có mái che, và thậm chí cả một nhà hát. Không có nhiều không gian trong khu Mở Rộng, nhưng người ta không lấy thế làm phiền. Luôn có tình thân ái và luôn có người cho bọn trẻ chơi với.
Khi mắt trời mùa đông đã chìm khuất xuống dưới những bức tường của Lâu đài, Silas dấn bước nhanh hơn. Ông cần phải về tới cổng Bắc trước khi họ khóa cổng và rút chiếc cầu bắc qua hào nước lúc trời xẩm tối.
Đúng lúc đó thì Silas chợt cảm thấy có một cái gì đó ở gần bên mình. Và vật này là vật sống, thế thôi. Ông cảm nhận được một nhịp tim người, một sinh linh nhỏ bé, đập yếu ớt ở đâu đó gần mình. Silas dừng lại. Vì là một Pháp sư Thường đẳng nên ông có khả năng cảm nhận sự vật, nhưng cũng vì không phải là một Pháp sư Thường đẳng tài giỏi đặc biệt, nên ông cần phải tập trung cao độ. Ông đứng im lìm, mặc cho tuyết rơi dày đặc xung quanh đã phủ kín những dấu chân. Và rồi, ông nghe thấy một tiếng gì đó - một tiếng khịt mũi, một tiếng thút thít, hay một hơi thở nhẹ? Ông không chắc, nhưng như thế là đủ.
Dưới một bụi cây bên đường là một cái bọc. Silas nhặt cái bọc lên, và thật sửng sốt, ông thấy mình đang nhìn trân trân vào đôi mắt nghiêm nghị của một đứa trẻ sơ sinh. Silas ẵm nó trên tay và tự hỏi làm thế nào mà con bé nằm được dưới tuyết trong cái ngày lạnh nhất trong năm này. Ai đó đã quấn chặt nó vào một cái chăn len dày, nhưng nó đã nhiễm lạnh rồi: làn môi tím mét, và tuyết phủ trắng lông mi. Khi đôi mắt màu tím đậm của đứa bé chăm chú nhìn ông, Silas có cảm giác bất an là hình như nó đã nhìn thấy điều gì đó trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, một việc mà không một đứa trẻ nào nên nhìn thấy.
Chợt nghĩ đến Sarah ở nhà, ấm áp và an toàn với Septimus và các con trai, Silas quyết định là chắc chắn họ sẽ nhín chỗ cho một sinh linh bé nhỏ nữa sống cùng. Ông cẩn thận nhét đứa bé vào trong tấm áo chùng pháp sư màu xanh da trời của mình, và ôm sát nó vào người trong lúc chạy về hướng cổng Lâu đài. Ông tới được cây cầu vừa lúc Gringe, người gác cổng, chạy ra và đang la hét cho cậu trực cầu quay tời rút cầu lên.
"Còn xíu thời gian thôi đó," Gringe gầm gừ. "Pháp sư mấy người đúng là quái. Muốn gì mà lại ra ngoài vào một ngày như thế này không biết nữa!"
"Hả?" Silas muốn đi qua mặt Gringe càng nhanh cang tốt, nhưng trước tiên ông cần phải đặt đồng bạc vào lòng bàn tay lão. Silas vội lục tìm ra được một đồng xu bạc từ một túi áo của mình và đưa cho lão già.
"Cảm ơn, Gringe. Chúc ông ngủ ngon."
Gringe dòm đồng xu như thể đó là một con bọ gớm ghiếc.
"Mụ Marcia Overstrand vừa cho ta hẳn một nửa đồng crao kìa. Nhưng mụ vừa mới lên bậc, chẳng hiểu sao mà giờ mụ đã lên tới Pháp sư Tối thượng rồi."
"Hả?" Silas suýt nghẹt thở.
"Ừm. Lên bậc, thì mụ ấy lên bậc chứ sao."
Lão Gringe lùi lại cho Silas đi ngang qua, và Silas vọt lẹ. Silas đang nôn nóng muốn tìm hiểu tại sao mà Marcia Overstrand lại bỗng dưng trở thành Pháp sư Tối thượng, thì bỗng cảm thấy cái bọc cũng bắt đầu ngọ nguậy nôn nóng y như thế trong tấm áo chùng ấm áp của mình. Và có cái gì đó mách bảo ông rằng tốt hơn đừng để cho lão Gringe biết gì về đứa bé.

* một đồng crow bằng 5 sillings
Khi Silas vừa biến vào bóng tối của đường hầm dẫn tới khu Mở Rộng, thì một dáng người cao lớn trong bộ đồ đỏ tía bước ào ra và ngáng đường ông.
"Marcia!" Silas há hốc miệng. "Cái quải gì..."
"Cấm được nói cho ai biết về con bé. Nó sinh là để dành cho anh. Hiểu chứ?"
Chết sững người, Silas gật đầu. Ông chưa kịp nói thêm điều gì, Marcia đã biến mất vào màn sương mờ màu đỏ tía. Silas đi nốt quãng đường dài quanh co còn lại qua khu Mở Rộng với đầu óc quay cuồng đủ mọi ý nghĩ. Đứa trẻ này là ai? Marcia có liên can gì tới nó? Và tại sao bây giờ Marcia Overstrand lại là Pháp sư Tối thượng? Và khi Silas về gần tới cánh cửa lớn màu đỏ dẫn vô căn phòng vốn đã chật chội rồi của gia đình Heap, bỗng một câu hỏi nữa, cấp bách hơn, bật ra trong đầu ông: liệu Sarah sẽ nói gì về việc phải chăm sóc thêm một đứa bé đây?
Silas không có thời gian để nghĩ lâu về câu hỏi cuối cùng này. Ông vừa bước tới cánh cửa thì cánh cửa bật mở tung ra, và một phụ nữ xồ xề, mặt đỏ gay, mặc cái váy màu xanh đậm của bà mụ chạy vụt ra, suýt nữa thì đâm phài Silas. Bà ta cũng ôm một cái boc, nhưng cái bọc đó bị cuốn băng kín từ đâu tới chân, và bà cắp nó dưới nách tựa như xốc một cái bao hàng và đang vội vã đi giao.
"Chết rồi!" Bà mụ thét lớn.
Bà đẩy Silas qua một bên bằng một cú thật mạnh, và chạy xuống hành lang. Bên trong phòng, Sarah Heap đang kêu khóc vật vã.
Silas bước vào, tim đập thình thịch. Ông thấy Sarah được bao quanh bởi sáu thằng bé mặt trắng bệch, chúng quá sợ đến nỗi không khóc được
"Bà ấy mang nó đi rồi," Sarah tuyệt vọng gào lên. "Septimus chết rồi. Bà ấy mang nó đi mất rồi."
Đúng lúc đó một làn hơi ấm, ươn ướt lan ra từ cái bọc Silas vẫn giấu trong áo chùng. Silas không tìm ra lời cho điều mình muốn nói, cho nên ông lôi cái bọc ra khỏi áo chùng và đặt nó vào cánh tay Sarah.
Sarah Heap bật khóc nức nở.

Chương 2: Sarah và Silas

Đứa bé trong bọc gia nhập gia đình Heap và được đặt tên là Jenna, theo tên mẹ Silas.
Khi Jenna tới, thằng út nhất trong đám, thằng Nicko, chỉ mới lên hai, và nó nhanh chóng quên biến cậu em Septimus của mình. Mấy thằng lớn hơn cũng từ từ quên luôn. Chúng yêu đứa em gái bé bỏng của mình, và hay tha về nhà cho cô bé đủ thứ báu vật từ lớp học Pháp thuật ở trường.
Sarah và Silas hiển nhiên là không thể nào quên được Septimus. Silas luôn tự đổ lội cho mình vì đã để Sarah ở nhà một mình trong khi ông tới chỗ bà lang bốc thuốc cho thằng bé. Sarah thì cứ tự dằn vặt mình vì tất cả mọi thứ. Mặc dầu vậy, bà gần như không thể nhớ nổi chuyện gì đã xảy ra vào cái ngày khủng khiếp ấy. Sarah biết mình đã cố thổi sự sống trở lại cho con và đã thất bại. Bà cũng nhớ mình đã nhìn thấy bà mụ quấn băng bé Septimus của bà kín từ đầu tới chân rồi vụt ra cửa, ngoái lại hét, "Chết rồi!".
Tất cả những gì Sarah nhớ được chỉ có thế.
Nhưng Sarah nhanh chóng yêu thương bé gái nhỏ hệt như bà đã yêu thương Septimus. Có thời gian bà cứ nơm nớp lo sợ kẻ nào đó sẽ tới và cũng sẽ giật Jenna đi mất, nhưng nhiều tháng trôi qua, khi Jenna lớn lên thành một bé gái bụ bẫm, hay ọ ẹ, Sarah mới dịu bớt và gần như thôi không lo lắng nữa.
Cho đến một ngày kia, chị bạn thân Sally Mullin, gần như đứt hơi chạy đến bậu cửa nhà bà. Sally Mullin là một trong những người biết tất cả mọi thứ diễn ra trong Lâu đài. Đó là một phụ nữ nhỏ thó, tất bật, tóc lưa thưa, hoe hoe lúc nào cũng lòi hẳn ra khỏi chiếc nón đầu bếp cáu bẩn. Gương mặt Sally tròn xoe, tươi cười, đỏ ửng vì cứ phải nướng bánh luôn tay, quần áo thì bao giờ cũng lấm tấm bột.
Sally điều hành một quán ăn xinh xắn ở ngay trên cầu phao, ngay bên sông. Tấm biển treo trên cánh cửa quán thông báo:
Quán Rượu và Trà của Sally Mullin
Có sẵn phòng trọ sạch sẽ
Cấm mang súng vào
Không có gì bì mật nổi trong quán ăn nhỏ cua Sally Mullin. Bất cứ vật gì và bất cứ người nào đến Lâu đài bằng đường thủy đều bị để ý và đều được bình phẩm, và hầu hết ai đến Lâu đài cuyng thích đến bằng thuyền. Trừ Silas ra, chả ai ưa những lối mòn tăm tối xuyên quy cánh rừng bao quanh Lâu đài. Đêm đến, cánh rừng vẫn còn vô vàn chồn cáo và lúc nhúc những thứ cây ăn thịt người. Rồi lại còn những phù thủy Wendron, một tộc người quanh năm túng tiền và khét tiếng là hay giăng bẫy những khách bộ hành khinh suất, rồi bỏ lại họ chỉ còn áo với tất chân.
Quán ăn nhỏ của Sally Mullin là một mái nhà nhộn nhịp, khói nghi ngút, đậu chênh vênh trên mặt nước. Thuyền bè đủ mọi kiểu dáng và kích cỡ thường bỏ neo bên chiếc cầu phà của quán, từ đấy tất cả mọi loại người cùng thú vật loạng choạng bước ra. Hầu hết bọn họ đều quyết định lấy lại sức sau cuộc hành trình vất vả bằng cách đánh chén ít nhất là một cốc bia cay xè và một lát bách lúa mạch nường của Sally, và kể những tin ngồi lê đôi mách nóng hổi nhất. Và bất cứ cư dân nào của Lâu đài có chừng nửa tiếng đồng hồ rảnh rỗi cùng một cái dạ dày đánh lộn lạo cũng sẽ đi xuống con đường đông đúc người lại qua, tới Cổng Cảng, qua Bãi rác Bờ sông Thơ mộng, đi dọc theo cầu phao tới Quán Trà và Rượu của Sally Mullin.
Sally tự xem mình có bổn phận mỗi tuần phải tới thăm Sarah một lần và cập nhật tất cả mọi sự việc cho bạn. Theo quan điểm của bà thì Sarah là một phụ nữ bị ngược đãi vì phải chăm sóc bảy đứa con lóc nhóc, đó là chưa kể Silas Heap, người mà hầu như Sally chả thấy mặt mũi bao giờ. Những câu chuyện của Sally thường liên quan đến những người mà Sarah chưa bao giờ nghe nói tới và chưa bao giờ gặp, thế nhưng Sarah luôn luôn ngóng đợi những cuộc viếng thăm của Sally vag thích thú nghe kể về những gì đang diễn ra xung quanh. Tuy nhiên, lần này những gì Sally phải kể cho bà nghe lại khác hẳn. Nó nghiêm trọng hơn nhũng câu chuyện phiếm hàng ngày, và lần này, nó lại dính líu đến Sarah. Và, cũng là lần đầu tiên, Sarah biết được điều gì đó mà Sally không biết.
Sally lao vào phòng và đóng sập cửa lại sau lưng một cách bí ẩn.
"Tôi vừa nghe được một tin khủng khiếp,"Sally thì thào.
Sarah vừa lúi húi lau sạch món điểm tâm dính trên mặt Jenna và khắp những chỗ mà con bé vừa phun ra, vừa cùng lúc đi theo lau dọn cho chú cún săn sói mới nuôi, nên không để ý lắng nghe lắm.
"Chào chị Sally,"bà nói. "Có chỗ sạch đây này. Ngồi xuống đi. Uống trà nhé?"
"Ừ. Nghe này Sarah, cô có tin được không?"
"Tin gì, chị Sally?" Sarah hỏi, định bụng sẽ nghe phàn nàn về một vị khách cư xử không ra gì gần đây nhất trong quán.
"Nữ Hoàng. Nữ Hoàng băng hà rồi!"
"Hả?" Sarah há hốc miệng. Bà nhấc Jenna ra khỏi ghế của nó và bê con bé ra góc phòng, chỗ đặt cái cũi. Sarah đặt Jenna xuống cho nó ngủ. Bà tin là trẻ con cần phải tránh thật xa những tin tức xấu.
"Băng hà," Sally rầu rầu đáp lại.
"Không!" Sarah sửng sốt. "Tôi không tin. Người chỉ hơi yếu sau khi lâm bồn thôi mà. Chính vì vậy mà cho đến nay chưa ai được trông thấy Người."
"Đó là bọn lính canh nói, đúng không?" Sally hỏi.
"Ờ, đúng," Sarah thừa nhận, rót trà ra tách. "Nhưng họ là cận vệ của Người mà, cho nên họ phải biết chớ. Tuy nhiên tôi không hiểu sao bỗng dưng Nữ Hoàng lại chọn cái bọn côn đồ ấy làm lính bảo vệ cho mình, tôi không hiểu nổi."
Sally cầm lấy tách trà Sarah vừa đặt trước mặt.
"Ừm. Hà, ngon. À, chính xác là..."Sally hạ thấp giọng và nhìn quanh như sợ sẽ thấy một tên lính canh bất ngờ từ trong góc phòng xồ ra, dù bà không hề nhận thấy có tên nào núp giữa đống bừa bộn trong phòng nhà Heap.
"Chúng là một lũ lưu manh. Thật ra thì, chính chúng đã giết Người."
"Giết? Người bị giết à?" Sarah thảng thốt kêu lên.
"Suỵt. Này, nghe kỹ đây..."Sally kéo ghế lại gần Sarah hơn. "Đang lan truyền một câu chuyện...và tôi vừa nghe từ miệng của con ngựa..."
"Ngựa nào thế?" Sarah hỏi với nụ cười gượng gạo.
"Bà Marcia...chứ còn ai nữa," Sally ngồi thẳng lên và khoanh tay lại, lộ vẻ chiến thắng.
"Cái gì? Làm sao chị gặp được Pháp sư Tối thượng đó? Bà ấy ghé vào quán uống trà à?"
"Gần như vậy. Terry Tarsal ghé quán. Trước đó lão có đến Tháp Pháp sư giao đôi dày quái dị lão vừa đóng cho bà Marcia. Kêu rêu xong một hồi về gu giày của bà ấy với chuyện lão ghét cay ghét đắng rắn như thế nào, lão mới bảo rằng lão đã nghe lỏm được bà Marcia nói chuyện với một Pháp sư. Chắc là Endor, bà phù thủy mập ấy, tôi nghĩ vậy. Ừm, họ nói với nhau là Nữ Hoàng bị bắn! Lính bảo hộ bắn. Một đứa trong bọn Ám Sát binh."
Sarah không thể tin nổi những gì mình đang nghe.
"Lúc nào?" Bà thở gấp.
"Ờm, đây mới thật là kinh khủng này,"Sally thì thầm một cách kích động. "Họ nói là Người bị bắn vào ngày mà đứa con của Người ra đời. Đúng sáu tháng trước, và chúng ta chẳng biết tí gì về chuyện đó cả. Kinh khủng...kinh khủng thật. Chúng còn bắn cả Ngài Alther nữa. Chết. Chính vì thế mà bà Marcia kế vị..."
"Ngài Alther chết?" Sarah thở hổn hển. "Tôi không tin. Không thể tin được...Cả nhà tôi đều nghĩ là ngài nghỉ hưu thôi. Silas từng là học trò của ngài nhiều năm trước mà. Ngài ấy dễ mến lắm..."
"Dễ mến?" Sally hỏi, vẻ hoài nghi, háo hức kể tiếp câu chuyện. "Này, chưa hết đâu. Bởi vì Terry đoán là bà Marcia đã cứu Công chúa và mang nó đi đâu đó. Endor và Marcia đang thắc mắc với nhau, không biết lúc này cô bé ra sao rồi. Nhưng đương nhiên khi nhận ra Terry mang giày đến thì họ ngừng nói liền. Bà Marcia rất cục cằn với lão, lão kể thế. Sau đó lão cảm thấy hơi lạ, và lão đoán là bà ta đang ếm bùa Lú lên lão, nên lão đã kịp nấp vào sau một cây cột nhà khi thấy bà lẩm bẩm, do đó bùa cũng không được trúng. Vụ ấy làm lão giận điên lên, vì lão không thể nhớ được là bà ấy đã trả tiền đôi giày cho lão hay chưa."
Sally Mullin dừng lời để lấy hơi và hớp một hụm trà to.
"Công chúa nhỏ tội nghiệp. Cầu Chúa phù hộ cho nàng. Chị thắc mắc không biết bây giờ nàng đang ở đâu. Chắc chắn là bị vứt trong hầm ngục nào đó ở đâu đó rồi. Không như thiên thần xinh xẻo của em đằng kia...Dạo này nó thế nào rồi?"
"Ồ, nó ngoan lắm,"Sarah đáp, bà vốn thường nói không ngớt về những cái hỉ mũi và cái răng mới mọc của Jenna, rồi về chuyện con bé ngồi chựng ra sao và tự cầm tách như thế nào. Nhưng lúc này Sarah chỉ muốn dẹp mọi sự chú ý khỏi Jenna - bởi vì sáu tháng qua Sarah không lúc nào ngưng thắc mắc con bé con mình đang nuôi này là ai, và giờ thì bà đã biết rồi.
Jenna là...Sarah nghĩ, và chắc là phải thế...là Công chúa bé con.
Đây là lần duy nhất Sarah cảm thấy vui mừng khi vẫy chào tạm biệt Sally Mullin. Bà nhìn bạn mình tất tưởi đi qua hành lang, và khi Sarah đóng cửa lại, bag thở phào một tiếng nhẹ nhõm. Rồi bà chạy bổ nhào tới chiếc cũi Jenna nằm.
Sarah ẵm Jenna lên và bế vòng bé trên tay. Jenna mỉm cười với Sarah và thò tay tóm lấy sợi dây chuyền xinh xắn của bà.
"Ôi, Công chúa bé bỏng," Sarah lẩm bẩm. "Mẹ vẫn biết là con rất đặc biệt mà, nhưng chưa bao giờ mẹ dám mơ rằng con chính là Công chúa."
Đôi mắt màu tím đậm của con bé dòm chằm chằm vào mắt Sarah, và trông con bé nghiêm trang như thể đang nói, Chà, vậy là mẹ biết rồi.
Sarah dịu dàng đặt Jenna trở lại cũi. Đầu bà quay mòng mòng, hai bàn tay run lẩy bẩy trong khi tự rót cho mình một tách trà khác. Bà thấy thật khó tin nổi những gì mình vừa nghe. Nữ Hoàng chết. Cả ngài Alther cũng chết. Jenna là người thừa kế Lâu đài. Công chúa. Chuyện gì đang xảy ra vậy?
Suốt buổi chiều hôm ấy Sarah cứ hết nhìn trân trối vào Jenna, Công chúa Jenna, lại hoảng hốt lo lắng không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu người ta biết con bé là ai. Silas đâu rồi, trong lúc bà vô cùng cần ông như thế này?

Silas đang thong dong thưởng thức một ngày câu cá với các con trai của mình.
Tại đoạn sông ngoặt ra từ khu Mở Rộng, có một bãi cát nhỏ. Silas đang bày cho Nicko và Jo-Jo, hai thằng bé nhất, cách cột những hũ mứt vào đầu một cây sào rồi dìm chúng xuống nước. Jo-Jo đã bắt được ba con cá lòng tong, nhưng Nicko đang nổi quạu vì cứ làm rớt cá của nó hoài
Silas bế Nicko lên và đưa nó tới chỗ Erik và Edd, hai đứa sinh đôi năm tuổi. Erik đang sung sướng mơ màng, đong đưa một bàn chân xuống dòng nước ấm, trong vắt. Edd thì đang dùng gậy chọc chọc cái gì đó dưới một phiến đá. Thì ra là một con bọ nước khổng lồ. Nicko kêu thét lên và ôm chặt lấy cổ Silas.
Sam, thằng gần bảy tuổi, là một ngư dân chánh hiệu. Nó đã được tặng một bộ cần câu "đúng chuẩn" vào ngày sinh nhật vừa qua của mình, và đã có hai con cá nhỏ, óng ánh bạc nằm vắt trên một phiến đá bên cạnh. Cu cậu đang chuẩn bị quay lên một con nữa. Nicko phấn khích hét ầm lên.
"Đưa nó đi chỗ khác đi, ba. Nó làm con cá đó sợ," Sam gắt gỏng.
Silas nhón gót bế Nicko đi và đến ngồi bên thằng anh cả, Simon. Simon đang một tay cầm cần câu, một tay cầm cuốn sách. Hoài bão của Simon là trở thành Pháp sư Tối thượng, và nó đang bận rộn đọc tất cả đống sách pháp thuật cũ của Silas. Cuốn này, Silas để ý, có tựa đề Bùa Câu Cá Tuyệt Chiêu.
Silas kỳ vọng tất cả các con trai mình sau này đều sẽ trở thành những pháp sư có đẳng cấp - theo truyền thống gia đình. Dì của Silas là một Phù thủy Thuện lừng danh, và cả cha lẫn chú của Silas đều từng là những Người Biến hình, một chuyên ngành vô cùng đặc biệt, và là chuyên ngành mà Silas mong rằng các con trai mình sẽ tránh, bởi vì những Người Biến hình thành công sau này khi về già đầu trở nên cực kà bất ổn, có những lúc không thể giữ nổi hình hài của mình hơn một phút. Cha của Silas cuối cùng đã biến mất vào cánh rừng thành một cái cây to, nhưng không ai biết là cây nào. Đó chính là một trong nhũng lý do tại sao Silas thích đi bộ băng qua cánh rừng. Ông thường ra dấu với một cái cây trông lùm xùm, hy vọng đó có thể là cha mình.
Sarah Heap xuất thân từ một gia đình thầy pháp và phù thủy. Hồi còn con gái, cô đã học dược thảo và thuật chữa bệnh với bà lang Galen sống trong cánh rừng, nơi mà một ngày nọ cô tình cờ gặp Silas. Lúc ấy anh đi vào rừng tìm cha. Anh bị lạc và đang buồn rầu thì Sarah đưa anh về cùng mình để gặp Galen. Bà lang giúp Silas hiểu rằng là cha của anh, vì là Người Biến hình, chắc hẳn từ nhiều năm trước đã chọn cho mình một đích đến cuối cùng là một cái cây, và giờ có lẽ ông ấy đang sung sướng thật sự. Và Silas cũng vậy, lần đầu tiên trong đời, anh bỗng cảm nhận được một niềm hạnh phúc đúng nghĩa khi ngồi kế bên Sarah, bên cạnh đống lửa của bà lang.
Khi Sarah đã thông hiểu tất cả những gì có thể thông hiểu về dược thảo và thuật chữa bệnh, cô vui mừng từ biệt Galen và về sống cùng Silas trong căn phòng của anh ở khu Mở Rộng. Và họ luôn sống bên nhau kể từ đó, mỗi năm sinh thêm con cái, trong khi Silas hân hoan bỏ vị trí Học trò của mình, làm một chân Pháp sư Thường đẳng chạy việc vặt để trang trải cuộc sống. Sarah bào chế cồn thuốc bên chiếc bàn nhà bếp mỗi khi có thời gian rảnh - điều này không thường xảy ra.
Tối hôm đó, khi Silas và các con đang bước lên những bậc thang bãi cát để trở về lại khu Mở Rộng, một tên lính bảo hộ lực lưỡng, trùm đồ đen kín mít từ đầu tới chân, chặn đường họ.
"Đứng lại!" Hắn gầm lên. Thằng Nicko òa khóc.
Silas dừng lại và bảo các con dừng theo.
"Giấy tờ!" Tên lính bảo hộ quát. "Giấy tờ của tụi bây đâu?"
Silas trố mắt dòm hắn.
"Giấy tờ gì?" Ông nhỏ nhẹ, không muốn gây rắc rối cho sáu thằng nhóc mệt mỏi vây quanh mình, đang cần về nhà để dùng bữa tối.
"Giấy tờ của mày, đồ pháp sư cặn bã. Bãi này cấm tất cả bọn không có giấy tờ," gã lính bải hộ khinh khinh.
Silas ngạc nhiên hết sức. Nếu không đi cùng các con, chắc chắn ông đã tranh cãi rồi, nhưng ông đã để ý thấy khẩu súng tên lính đang cầm.
"Xin lỗi,"ông bảo. "Tôi không biết"
Tên lính nhìn cả đám khắp lượt như thể quyết định làm gì đó, nhưng may cho Silas là lúc đó hắn còn những người khác đang đi tới để mà dọa nạt.
"Cả lũ tụi bay cút khỏi đây và cấm trở lại,"gã lính nạt nộ. "Ở đâu yên đấy."
Silas lùa vội bầy con đang sững sờ lên hết những bậc cấp và bước vào vùng an toàn của khu Mở Rộng. Sam đánh rớt hết cá của nó và bật khóc sút sít.
"Nào nào," Silas dỗ dành."Ổn cả mà."
Nhưng Silas cảm thấy cái gì đó không hề ổn chút nào. Đang có chuyện gì vậy nhỉ?
"Tại sao ông ấy lại gọi chúng ta là pháp sư cặn bã?" Simon hỏi. "Pháp sư là tốt nhất cơ mà, phải không ba?"
"Phải," Silas lơ đãng nói. "Tốt nhất."
Nhưng vấn đề là, Silas nghĩ, không thể che giấu được nếu anh là pháp sư. Tất cả mọi pháp sư, và chỉ pháp sư mà thôi, đều có dấu hiệu này. Silas có, Sarah có, và tất cả đám con trai trừ Nicko và Jo-Jo, cũng đều có. Chừng nào mà Nicko và Jo-Jo đi học pháp thuật ở trường, chừng đó chắc chắn chúng cũng sẽ có dấu hiệu ấy. Chậm nhưng chắc, cho đến khi không nghi ngờ gì nữa, đôi mắt của đứa trẻ pháp sư sẽ chuyển thành màu xanh lá cây khi nó tiếp nhận bài học Pháp thuật. Đó luôn là niềm tự hào. Vậy mà, cho đến bây giờ, đột nhiên điều đó lại có thể trở thành nguy hiểm.
Tối hôm đó, khi mãi cuối cùng tất cả bọn trẻ rồi cũng đi ngủ, Silas và Sarah nói chuyện với nhau đến tận đêm khuya. Họ nói về Công chúa và đám con pháp sư của mình, và về những thay đổi đã xảy ra với Lâu đài. Họ bàn chuyện đào thoát tới Đầm Cỏ Thô, hoặc đi sâu vào cánh rừng và sống với Galen. Mãi đến khi bình minh hé dạnh, họ mới ngủ thiếp đi, Silas và Sarah đã quyết định làm cái điều mà gia đình Heap thường hay làm: tính toán mọi phương kế và hy vọng điều tốt nhất sẽ xảy ra.
Và như thế, suốt chín năm rưỡi sau, Silas và Sarah vẫn giữ im lặng. Họ khóa kín và che chắn cửa nhà, chỉ nói chuyện với những láng giềng và những người mà họ tin cậy, và khi lớp học Pháp thuật ở trường bị cấm, họ dạy Pháp thuật cho các con tại nhà vào những buổi tối.
Chính vỉ lý do đó mà chín năm rưỡi sau, tất cả mọi người trong gia đình Heap, ngoại trừ một người, đều có mắt màu xanh lá cây đậm.

[SÁNG TÁC VĂN HỌC-KST.VN-QUÀ TẶNG HẤP DẪN]

Report




KSTS


Cash
1892 K$D
Posts
720

Space
Add
Poke
PM
3#
kuisuira Post on 1-10-2010 09:58:41 |View kuisuira's posts Chương 3 : Vị bảo hộ toàn quyền

Sáu giờ sáng và trời vẫn còn tối, đã mười năm tính từ cái ngày Silas tìm thấy cái bọc.
Ở cuối Hành lang 223, đằng sau cánh cửa lớn màu đen có số 16 do Đội Tuần tra Số nhà đóng lên gia đình Heap đang ngủ say sưa. Jenna nằm cuộn tròn trên chiếc giường hộp xinh xinh của mình, chiếc giường do Silas đóng cho cô bế từ gỗ dạt trôi tấp vào bờ sông. Chiếc giường được đóng thành một chiếc tủ lớn, kê ở đầu một căn phòng rộng, mà thật ra đó là căn phòng duy nhất thuộc sở hữu của gia đình Heap.
Jenna yêu chiếc giường của bé lắm. Sarah dùng vải vụn màu sắc sặc sỡ may chắp lại thành những tấm rèm để cho Jenna có thể kéo xuống, quay kín giường, vừa tránh được rét lại vừa tránh khỏi đám anh ồn ào của mình. Điều thú vị nhất là, cô bé có một ô cửa sổ nho nhỏ ở trên tường, ngay phía trên gối nằm một chút, nhìn ra dòng sông. Nếu Jenna không ngủ được, cô bé có thể chong mắt ngó ra cửa sổ hang nhiều giờ liền, ngắm những đoàn thuyền vô tận đủ mọi kiểu dáng, tấp nập đi ra đi vào Lâu đài, và thỉnh thoảng vào những đêm trời trong, cô bé mê mẩn đếm sao cho đến khi ngủ thiếp đi.
Căn phòng lớn là chỗ cho toàn thể gia đình Heap sống, nầu nướng, ăn, tranh luận, và (thỉnh thoảng) làm bài tập về nhà. Căn phòng bừa bộn kinh khủng. Nó chứa lú khú những món đồ tích góp được suốt 20 năm kể từ khi Sarah và Silas cùng nhau gây dựng gia đình. Nào là cần câu cá và cuộn dây nhợ, giày, vớ, dây thừng và bẫy chuột, túi giỏ và chăn mền, lưới và que đan, rồi nào là quần áo và nồi niêu xoong chảo, gối và đồ nghề nấu bếp, rồi sách, sách, sách, và đương nhiêu ngày càng thêm nhiều sách.
Nếu ai ngớ ngẩn đảo quanh căn phòng của gia đình Heap, hy vọng tìm được một chỗ trống để ngồi, thì chắc chắn sách sẽ là thứ được thấy trước tiên. Tất cả mọi ngóc ngách, xó xỉnh đề toàn là sách là sách. Sách trên những cái kệ nghiêng võng, sách trong thùng, sách trong những cái bao treo thong từ trên trần nhà xuống, sách dùng để kê bàn, và sách chất thành những chồng cao ngất nghểu, đe dọa có thể đổ sập xuống vào bất cứ lúc nào. Sách truyện, sách dược thảo, sách nấu ăn, sách về thuyền, sách dạy câu cá, nhưng chiếm phần lớn là hàng trăm quyển sách Pháp thuật, do Silas lén lút cứu vớt khỏi trường học khi Pháp thuật bị cấm dạy cách đây vài năm.
Chính giữa căn phòng là một lò sưởi lớn, từ đó một ống khói cao vút lên, ngoằn ngoèo bò xuyên qua mái nhà- trong lò chứa những tàn dư của một ngọn lửa, giờ đã lạnh ngắt, xung quanh là là sáu thằng con trai nhà Heap và một con chó to đùng đang ngủ ngổn ngang trong một đống mền bông và tấm đắp.
Sarah và Silas cũng đang ngủ ngon lành. Họ đã tẩu thoát lên gác mái bé tí, do Silas chiếm được cách đây vài năm bằng cách đơn giản là trổ hẳn một lỗ xuyên qua trần nhà, sai khi Sarah tuyên bố rằng bà không còn chịu nổi cảnh chung phòng với sáu thằng quỷ nhỏ đang lớn nữa.
Nhưng, giữa đám lộn xộn trong căn phòng lớn một ốc đảo nhỏ ngăn nắp nhô lên- một chiếc bàn dài, hơi xộc xệch phủ khan bàn trắng tinh. Trên bàn bày biệ chin cái đĩa và chin cái ca, và ở đầu bàn có một chiếc ghế nhỏ được trang trí bằng lá cây và quả mọng mùa đông. Mặt bàn phí trước chiếc ghế có đặt một món quà xinh xinh, được gói cẩn thận trong giấy hoa và cột ruy băng đỏ thắm, sẵn sang cho Jenna mở ra vào ngày sinh nhật thứ mười của cô bé.
Tất cả đều bình yên và thinh lặng kho gia đình Heap nằm ngủ an bình trong suốt những tiếng đồng hồ cuối cùng của đêm tối, trước khi mặt trời mùa đông đến hẹn lại lên
Tuy nhiên, ở đầu đằng kia Lâu đài, trong Cung Điện của những người Bảo hộ, giấc ngủ, dù yên bình hay không, vẫn luôn bị bỏ bê.
Vị bảo hộ Toàn quyền vừa bị dựng dậy khỏi giường và với sự trợ giúp của tên Hầu Đêm, ông ta lật đật mặc chiếc áo chẽn màu đen viền long thú và khoác chiếc áo chùng đen khảm vàng nặng chịch vào, xong quay sang quát tháo, hướng dẫn Hầu Đêm cách cột dây đôi giày lụa thêu cho mình. Rồi, tự tay ông ta đội chiếc vương miện tuyệt đẹp lên đầu. Vị Bảo hộ Toàn quyền không bao giờ để ai trông thấy mình không có vương miện ngự trên đầu, nó vẫn mang một vết lõm từ ngày bị rớt khỏi đầu Nữ hoàng và lao xuống nền nhà bằng đá. Chiếc vương miện đậu hơi vẹo trên cái hộp sọ hói, nhòn nhọn của ông ta nhưng tên Hầu Đêm, mới vào làm và sợ đến chết khiếp, không dám thong bào cho ông ta biết.
Vị Bảo hộ Toàn quyền sải những bước chân hùng dũng trong hành lang dẫn tới phòng Thiết triều. Đó là một người đàn ông nhỏ choắt như chuột, da tái, với đôi mắt hình như không màu, và một bộ râu dê cầu kỳ mà ông ta vốn có thói quen tối hàng nhiều giờ tỉa tót, ngắm vuốt một cách khoái chí. Ông ta gần như bị gói gọn trong chiếc áo khoác rộng lùng phùng, khảm đầy những phù hiệu quân đội, và diện mạo ông ta trông hơi lố bịch do chiếc vương miện thanh thoát của phụ nữ bị đội lệch. Nhưng giả sử có ai trông thấy ông ta vào buổi sáng hôm ấy, thì chắc chắn người đó cũng không dám bật cười, mà hẳn chỉ biết núp vào bóng tối, hy vọng ông ta đừng nhìn thấy mình, bởi vì ông Bảo hộ Toàn quyền tỏa ra một bầu không khi đe dọa ghê gớm.
Gã Hầu Đêm giúp vị Bảo hộ Toàn quyền an vị trên chiếc ngai vàng trang trí hoa văn cầu kỳ ở trong phòng Thiết triều. Sau đó, bị phẩy tay đuổi đi một cách nôn nóng, gã liền hấp tấp rời đi khỏi với vẻ biết ơn; ca trực của gã sắp hết.
Không khí lạnh như cắt buổi sáng ở lì trong phòng Thiết triều. Bảo hộ Toàn quyền ngồi dửng dưng trên ngai vàng, nhưng hơi thở của ông ta, bị bám khí lạnh thành những tiếng phì phò gấp rút, đã tố cáo tâm trạng kích động của ông.
Ông ta không cần đợi lâu thì đã có một phụ nữ trẻ cao, mặc áo chùng đen tuyền và áo chẽn đỏ rực của Ám sát binh lanh lẹn bước vào, và cúi chào đến nỗi hai ống tay áo xẻ của mụ quết xuống sàn đá.
“Tâu, đã tìm thấy Công chúa,” mụ Ám sát binh tâu bằng giọng trầm.
Bảo hộ Toàn quyền ngồi thẳng dậy và giương đôi mắt trắng dã dòm mụ Ám sát binh.
“Người chắc chứ? Ta không muốn sai lầm lần này đâu đấy,” ông ta cất giọng đe dọa.
“Tâu, gián điệp của chúng ta đã nghi ngờ một đứa trẻ từ lâu. Chị ta để ý thấy con bé là một người lạ trong gia đình của chính nó. Hôm qua, gián điệp của chúng ta phát hiện ra đứa trẻ này đúng tuổi.”
“Chính xác mấy tuổi?”
“Đúng mười tuổi vào hôm nay, tâu Chúa thượng”.
“Thật không?” Vị Bảo hộ Toàn quyền ngả người ra sau ngai vàng và nghiền ngẫm những lời mụ Ám sát binh vừa nói.
“Tâu, thần có hình đứa trẻ ấy ở đây. Thần thấy rằng nó rất giống mẹ nó, cựu Nữ hoàng.”
Mụ Ám sát binh lôi từ bên trong áo chẽn ra một tờ giấy nhỏ. Trên giấy là bức tranh, với nét vẽ thật tài tình là một bé gái có đôi mắt màu tím đậm và mái tóc đen dài.
Bảo hộ Toàn quyền cầm lấy bức vẽ. Quả đúng vậy, Con bé này giống Nữ hoàng đã chết như đúc. Ông ta liền ra ngay một quyết định và bật những ngón tay xương xẩu một tiếng tách thật to.
Mụ Ám sát binh nghiêng mình,cúi đầu
“Bẩm?”
“Tối nay. Nửa đêm. Đến ngay… ở đâu, hả?”
“Bẩm, phòng 16, Hành lang 223”
“Họ?”
“Bẩm, Heap”
“Ờ. Mang súng bạc. Bao nhiêu người trong gia đình đó?”
“Bẩm, chín, kể cả đứa trẻ.”
“Thế thì, chín viên đạn đề phòng rắc rối. Viên bạc dành cho đứa trẻ. Mang nó về đây cho ta. Ta muốn có bằng chứng.
Mụ phụ nữ trẻ mặt trắng bệch. Đây là bài kiểm tra đầu tiên, và duy nhất của mụ. Không có cơ hội thứ hai cho Ám sát binh.
“Bẩm, vâng.”
Mụ cúi chào nhanh và rút lui, hai bàn tay mụ run cầm cập.
Trong một góc lặng lẽ của phòng Thiết triều, hồn ma Alther Mella đứng dậy khỏi băng ghế đá lạnh toát mà ngài ngồi nãy giờ. Ngài thở dài và duỗi thẳng đôi cẳng ma. Xong, quấn mấy lớp ào thụng màu tía nhạt quanh mình, ngài hít một hơi thất sâu và bước xuyên qua bức tường đá của phòng Thiết triều.
Ra đến ngoài trời, hồn ma bay lượn ở độ cao cách mặt đất mười tám mét trong bầu không khí lạnh buổi sáng còn tối mờ. Thay vì sải bước theo đúng cách thức cao quý mà một hồn ma ở tuổi tác và địa vị của ngài nên tuân thủ, thì Alther lại dang đôi cánh tay như cánh chim và uyển chuyển chao liệng qua làn tuyết rơi.
Bay là điều duy nhất mà hồn ma Alther thích thú về phận làm ma. Bay, hay Nghệ thuật Khinh công Thất truyền, là môn phái mà những Pháp sư Tối thượng hiện đại không còn thực hiện nữa. Ngay cả Marcia, người mà đáng ra phải bay được, cũng chẳng làm được khá hơn một cú liện chớp nhoáng rồi đâm sầm xuống đất. Vì lý do nào đó, bí mật Khinh công đã bị thất lạc. Nhưng dĩ nhiên tất cả mọi con ma đều có thể bay được. Và kể từ khi thành ma, Alther đã mất luôn nỗi ám ảnh sợ độ cao của mình, và đã mải mê dành không biết bao nhiêu giờ để chau chuốt cho những cú nhào lộn tinh xảo. Ngoài ra, phận làm ma chẳng có gì cỏ thể khiến ngài thích thú, và ngồi trong phòng Thiết triều (nơi trước kia, khi còn sống ngài từng đóng đô thật sự -và tiếp tục là nơi Alther trải qua một năm và một ngày kiếp làm ma của mình) là một trong những công việc mà ngài ít thích nhất. Nhưng ngài buộc phải làm. Alther tự coi bổn phận của mình là phải biết vị Bảo hộ Toàn quyền đang âm mưu cái gì và phải cố cập nhật tin tức cho bà Marcia. Nhờ sự giúp sức của hồn ma Alther mà bà có thể giữa được trạng thái đi trước Bảo hộ Toàn quyền một bước và bảo vệ an toàn cho Jenna. Tính cho đến bây giờ.
Suốt bao nhiêu năm, kể từ khi Nữ hoàng tạ thế, Bảo hộ Toàn quyền càng ngày càng ráo riết săn lùng Công chúa. Năm nào ông ta cũng thân hành rong ruổi đường xa, và nguy hiểm tới Vùng Đất hoang. Ở đó, ông ta buộc phải báo cáo tiến độ của mình cho một cựu Pháp sư Tối thượng biến thành Thầy đồng Gọi hồn, DomDaniel.
Chính DomDaniel là kẻ đã sai Ám sát binh đầu tiên đi thủ tiêu Nữ hoàng, và chính DomDaniel đã dựng nên vị Bảo hộ Toàn quyền và bè lũ tay sai để lùng sục Lâu đài và truy tìm Công chúa. Bởi chừng nào Công chúa vẫn còn ở trong Lâu đài, chừng đó DomDaniel còn không dám lại gần. Vì vậy, năm nào Bảo hộ Toàn quyền cũng hứa với DomDaniel rằng năm nay ông ta sẽ thành công. Năm nay, ông ta sẽ quét sạch tàn tích của Nữ hoàng và cuối cùng sẽ chuyển giao Lâu đài cho chủ nhân đích thực của nó, DomDaniel.
Và chính vì lý do này mà khi hồn ma Alther rời khỏi phòng Thiết triều, Bảo hộ Toàn quyền đeo vào khuôn mặt mình thừ mà ngày xưa mẹ ông vẫn gọi là ngốc nghếch.
Rốt cuộc, ông ta đã làm xong việc được giao. Dĩ nhiên, ông ta nghĩ bụng ( trong lúc nụ cười ngốc nghếch biế thành nụ cười tự mãn), chẳng phải nhờ trí thông minh và tài năng tuyệt tột đỉnh của mình mà mình đã phát hiện ra con bé đấy sao. Nhưng không phải- chẳng qua là một cú ăn may quái dị mà thôi.
Khi Bảo hộ Toàn quyền chiếm lĩnh Lâu đài, một trong những điều đầu tiên ông ta làm là cấm phụ nữ có chân trong trụ sở hành chính. Nhà vệ sinh Nữ, vì không còn dùng đến nữa, cuối cùng trở thành một phòng họp Hội đồng nhỏ. Trong suốt tháng lạnh căm vừa qua, Hội đồng Bảo hộ họp nhóm ở cái phòng trước kia là Nhà vệ sinh Nữ, rất tiện lợi vì có lò sưởi đốt củi, ấm hơn phòng Hội đồng Bảo hộ nhiều ngóc ngách, nơi từng cơn gió buốt thấu cứ hù rít réo quanh và đông cứng bàn chân các ông Hội đồng thanh những khối nước đá.
Và như vậy, rất vô tình, đúng một lần duy nhất mà quân Bảo hộ đã đi trước hồn ma Alther Mella một bước. Vì là ma, nên Alther chỉ đi tới được những nơi mà khi còn sống ngài từng đi- và, vốn là một Pháp sư trẻ có giáo dục, cả đời Alther không bao giờ léo hánh đến Nhà vệ sinh Nữ. Điều duy nhất ngai có thể làm là lảng vảng chờ bên ngoài, như hồi còn sống và đang tán tỉnh thẩm phán Alice Nettles.
Một buổi xế chiều lạnh băng cách đây vài tuần, con ma Alther đã thấy Hội đồng Bảo hộ đi vào Nhà vệ sinh Nữ. Cánh cửa nặng nề, có dòng chữ QUÝ BÀ vẫn còn thấy được những mẫu tự vàng bị phai nhòa, đóng sầm lại sau lưng chúng, và ma Alther lượn lờ bên ngoài, dán tai vào cánh cửa, cố nghe ngóng xem chúng bàn bạc gì. Nhưng dù có cố nghe thế nào, ngài cũng không thể nghe được việc Hội đồng Bảo hộ quyết đinh phái tên gián điệp xuất sắc nhất của chúng, Linda Lane, biết thảo dược và chữa bệnh, tới sống ở phòng 17, Hành lang 223, sát bên phòng của gia đình Heap.
Và như vậy cả hồn ma Alther lẫn gia đình Heap đều không hay biết rằng, người láng giêng mới là một gián điệp. Và lại là một tên gián điệp cừ khôi.
Khi hồn ma Alther Mella bay qua màn tuyết dày, mải nghiền ngẫm cách cứu Công chúa, ngài lơ đểnh, lặp lại gần hai vòng quãng đường rồi mới lao xuống, xuyên qua những bông tuyết rơi dập dìu để đến Kim tự tháp vàng, ngự trên đỉnh Tháp Pháp sư.
Alther khéo léo đáp xuống bằng hai bàn chân. Trong một tích tắc, ngài đứng thăng bằng trên mũi chân. Rồi ngài nâng cánh tay lên quá đầu và quay tít thật nhanh, nhanh nữa cho tới khi bắt đầu chìm từ từ qua mái nhà và xuống căn phòng bên dưới, nơi đây ngài tính toán sai nên đã đáp xuống và rớt vèo qua bức màn trướng treo trước cái giường bốn cọc mùng của bà Marcia Overstrand.
Bà Marcia ngồi phắt dậy thất kinh. Ma Alther nằm song xoài trên gối của bà, bối rối.
“Xin lỗi, Marcia. Rất bất lịch sự. Ồ tốt, ít nhất cô cũng đang không đeo lô cuốn.”
“Tóc tôi quăn tự nhiên mà, cảm ơn, Ngài Alther,” bà Marcia cáu kỉnh nói. “Lẽ ra ngài nên đợi đến khi tôi thức dậy thì hơn.”
“Tôi e rằng, Marcia à,” ngài nói khó nhọc, “việc này không chờ được đâu.”

Chương 4 : Bà Marcia Overstrand

Bà Marcia Overstrand sải bước ra khỏi phòng ngủ trên tầng tháp cao ngất của mình để đi vào phòng để quần áo ngay bên cạnh, mở tung cánh cửa màu tía nặng nề dẫn lên chiếu nghỉ và soi bóng mình vào trong chiếc gương điều chỉnh.
“Bớt tám phẩy ba phần trăm!” Bà ra chỉ thị cho chiếc gương, mà sáng nào cũng líu ríu và kinh hãi chọn tư thế sẵn sàng nghinh đón khi cánh cửa của bà Marcia mở toang ra. Suốt bao nhiêu năm ròng, chiếc gương luôn đọc được tiếng những bước chân khi chúng dậm lên ván sàn gỗ, và hôm nay chúng khiến cho chiếc gương rất bực mình. Bực mình ghê lắm. Chiếc gương đứng nghiêm, và với vẻ hăng hái muốn làm hài lòng, nó chỉnh cho hình ảnh phản chiếu của bà Marcia mảnh bớt đi tám phẩy ba phần trăm, khiến bà trông giống như một con bọ màu tía, cáu kỉnh ốm tựa cây sậy.
“Khùng!” Bà Marcia gắt.
Chiếc gương tính toán lại. Nó ghét phải làm toán vào lúc sớm bảnh mắt, và nó tin chắc là bà Marcia đã cố ý đưa cho mình cái phần trăm quỷ quái như thế này. Bộ bà ấy không thể ốm đi theo một con số tròn, kiều như 5%, hoặc thậm chí nhỉnh thêm chút nữa là 10% được sao. Chiếc gương thích những con số 10% lắm- nó có thể làm được những con số ấy.
Bà Marcia mỉm cười với hình ảnh mình trong gương. Trông bà thật tuyệt vời.
Bà mặc đồng phục Pháp sư Tối thượng mùa đông vào. Bộ đồ rất vừa vặn với bà. Chiếc áo chùng hai lớp lụa màu tía được viền long mèo angora màu chàm mềm mại nhất. Nó duyên dánh buông xuống từ đôi bờ vai rộng và ngoan ngoãn chụm lại ôm quanh đôi bàn chân nhọn của bà. Bàn chân của bà Marcia nhọn là vì bà mê thích các loại giày mũi nhọn, và bà hay đặt đóng riêng cho thật đặc biệt. Chúng được làm bằng da rắn, thứ da được lột từ loài trăn tía mà tiệm giày cất giữ ở sân sau, chỉ chuyên dùng để đóng giày cho bà Marcia. Ông thợ giày Terry Tarsal ghét rắn và tin rằng bà Marcia đặt da rắn là có chủ ý. Có lẽ ông ta đúng. Đôi giày da trăn của bà Marcia óng ánh lên trong ánh sáng phản chiếu từ chiếc gương, và vàng cùng bạch kim nạm trên dải thắt lưng Pháp sư Tối thượng của bà chói rực lên thật oai nghi. Quanh cổ bà đeo tấm bùa Hộ mạng Akhu, biểu tượng và nguồn sức mạnh của Pháp sư Tối thượng.
Bà Marcia hài lòng. Hôm nay bà cần toát lên vẻ uy nghi. Uy nghi và một chút đáng sợ. Đúng, chỉ một chút đáng sợ nếu cần. Bà hi vọng không cần đến nó.
Bà Marcia không chắc là mình có tỏ ra đáng sợ được hay không. Bà cố thử vài điệu bộ trong gương. Chiếc gương co rúm lại im re, nhưng bà vẫn chưa chắc mình sẽ chọn điệu bộ nào. Bà Marcia không nhận ra rằng hầu hết mọi người đều cho là bà thật sự đáng sợ lắm rồi, một vẻ đáng sợ hoàn toàn tự nhiên.
Bà Marcia bật ngón tay.
“Sau!” Bà quát
Chiếc gương soi phía sau bà.
“Hông!”
Chiếc gương soi cả hai bên hông bà.
Sau đó bà đi ra. Bước xuống cầu thang hai bậc một, xuống nhà bếp để khiến chiếc bếp lò hoảng hồn, nó đã nghe tiếng bà đi tới và cuống quýt tự thắp lửa lên trước khi bà bước qua ngưỡng cửa.
Nhưng nhó làm không xong, và bà Marcia cau có, quạu quọ suốt bữa điểm tâm.
Bà Marcia bỏ mặc chén đĩa bữa sáng cho chúng tự rửa lấy và bước thoăn thoắt ra khỏi cánh cửa tía nặng chịch dẫn tới các phòng của bà. Cánh cửa đóng lại một tiếng “cách” nhẹ, đầy kính cẩn sau lưng khi bà Marcia nhảy lên dãy cầu thang xoắn bạc.
Nó bắt đầu quay như một cái mở nút chai khổng lồ, chậm rãi đưa bà xuống tòa tháp cao sừng sững, qua những tầng gác như vô tận và những cánh cửa đủ kiểu đủ loại- mà tất cả đều dẫn tới những phòng của các pháp sư theo một hệ thống phân bậc tài tình. Từ các căn phòng vọng ra tiếng luyện bùa, tiếng niệm thần chú và tiếng những ông bà pháp sư râm ran nói chuyện với nhau trong bữa sáng. Mùi thịt xông khói, cốm bắp, bay dập dềnh lên từ sảnh đường phía dưới, và khi chiếc cầu thang xoắn ốc nhẹ nhàng dừng lại, bà Marcia bước ra, cảm thấy hơi mắc ói và nhìn về phía trước, hướng thẳng vào bầu không khí trong lành. Bà bước lẹ làng qua sảnh đường, tới cánh cửa đôi đồ sộ bằng bạc đặc, chắn giữ lối vào Tháp Pháp sư. Bà Marcia đọc mật khẩu, cánh cửa đôi lẳng lặng mở ra cho bà, và một tích tắc sau bà Marcia đã đi qua vòm cửa bạc, xông ra ngoài cái lạnh cắt da thịt của một buổi sáng giữa mùa đông tuyết đổ.
Khi bà Marcia đi xuống những bậc thang dốc, thận trọng dẫm đôi giày có mũi nhọn hoắt lạo xạo lên tuyết, bà khiến cho tên lính canh đang vơ vẩn chọi tuyết vào một con mèo hoang sững người lại. Một cục tuyết đáp bịch xuống tấm áp chùng lụa tía của bà.
“Đừng thế chứ!” Bà Marcia nạt, phủ cục tuyết khỏi áo chùng.
Tên lính canh giật bắn mình đứng nghiêm. Trông hắn kinh hãi. Bà Marcia nhìn đăm đăm vào thằng bé như trẻ bụi đời. Nó mặc đồng phục của lính canh, một kiểu thiết kế ngớ ngẩn từ vải cô-tông mỏng, một manh áo chẽn sọc đỏ và trắng có bèo màu tía diềm quanh ống tay áo. Nó cũng đội một chiếc nó mềm lớn màu vàng,mang vớ ôm màu trắng và ủng màu vàng chói, và bàn tay trái của nó, để trần và xanh thẫm lại vì lạnh, cầm một cán giáo nặng.
Bà Marcia từng phản đối khi những tên lính canh đầu tiên đến Tháp Pháp sư. Bà đã bảo với ông Bảo hộ Toàn quyền rằng các pháp sư không cần phải có bảo vệ. Họ có thể tự chăm sóc mình rất tốt, xin cảm ơn. Nhưng lão ta chỉ nhếch nụ cười khinh mạn của mình lên và điềm nhiên bảo với và rằng có lính canh là vì sự an toàn của các pháp sư. Bà Marcia nghi ngờ gã đặt bọ chúng ở đó không chỉ để theo dõi việc ra vào của các pháp sư mà còn để làm cho các pháp sư thành ngớ ngẩn.
Bà Marcia nhìn tên lính canh vừa ném tuyết. Chiếc nón rộng quà khổ đối với nó – sụp hẳn xuống và đậu lại trên hai tai, coi bộ loe ra đúng chỗ để tiện hứng không cho chiếc nón sụp xuống mắt nó. Vành nón tạo cho gương mặt gầy gò, tím tái của thằng bé có màu vàng nhợt yếu ớt. Hai con mắt xám sâu thẳm trố lên kinh hoàng bên dưới cái nón khi thằng bé nhận ra mình vừa ném tuyết trúng Pháp sư Tối thượng.
Trông hắn, bà Marcia nghĩ, quá bé con để làm một tên lính.
“Mi bảo nhiêu tuổi?” Bà hỏi như buộc tội
Tên lính canh đỏ mặt. Trước giờ chưa từng có ai như bà Marcia thèm nhìn nó, chứ đừng bảo là nói chuyện với nó.
“Mư…ười, thưa bà.”
“Thế sao mi không đi học?” Bà Marcia hạch hỏi.
Tên lính canh tỏ ra kiêu hãnh:
“Tôi không cần trường học, thưa bà. Tôi ở trong Thiếu sinh quân. Chúng tôi là niềm tự hào của Hôm nay, là chiến binh của Ngày mai.”
“Mi có lạnh không?” Bà Marcia buột miệng hỏi.
“”Kh… không, thưa bà. Chúng tôi được huấn luyện để không cảm thấy lạnh.”
Nhưng đôi môi của tên lính canh đã tím bầm và nó run bần bật khi nói.
“Hừ,” bà Marcia nện giày xuống tuyết, đi khỏi, bỏ lại tên lính canh với bốn giờ canh gác của nó nữa.

[SÁNG TÁC VĂN HỌC-KST.VN-QUÀ TẶNG HẤP DẪN]

Report




KSTS


Cash
1892 K$D
Posts
720

Space
Add
Poke
PM
4#
kuisuira Post on 1-10-2010 10:00:01 |View kuisuira's posts Bà Marcia bước phăm phăm qua khoảng sân dẫn ra khỏi Tháp Pháp sư, và bước qua một cánh cổng hông, đưa bà vào một lối đi bộ im ắng, ngập tuyết.
Bà Marcia đã là pháp sư Tối thượng được mười năm rồi, kêt từ ngày ấy, và khi dấn bước lên đường, ý nghĩ của bà lùi về quá khứ. Bà nhớ cái thời mình còn là mầm hi vọng đáng thương, đọc ngấu nghiến bất cứ thứ gì về pháp thuật, hy vọng một điều hiếm hoi - ấy là được chọn làm học trò của Pháp sư Tối thượng, ngài Alther Mella. Đó là những năm tháng hạnh phúc sống trong một căn phòng nhỏ ở khu Mở Rộng cùng với rất nhiều mầm hi vọng khác, hầu hết họ sau đó không lâu đều được chọn làm học trò của những Pháp sư Thường đẳng. Nhưng Marcia không muốn vậy. Cô biết mình muốn gì, và cô muốn vị trí cao nhất cơ. Thế nhưng, Marcia vẫn không thể tin nổi vận may của mình kho cô có cơ hội được nhận làm học trò của ngài Alther Mella. Mặc dù trở thành học trò của ngài không có nghĩa là cô sẽ trở thành Pháp sư Tối thượng, nhưng đó là một bước nữa tiến gần hơn đến giấc mơ của mình. Và vì vậy, Marcia mất thêm bảy năm và một ngày kế tiếp sống trong Tháp Pháp sư với tư cách là học trò của Alther.
Bà bất giác mỉm cười một mình khi nhớ lại Alther Mella là một pháp sư tuyệt vời như thế nào. Phương pháp sư phạm của ngài thật dễ gây hứng thú, ngài kiên nhẫn khi bùa chù bị ếm sai, và ngài luôn có câu bông đùa dành cho cô. Ngài cũng là một pháp sư có quyền năng thâm hậu. Cho đến khi chính Marcia trở thành Pháp sư Tối thượng, cô vẫn chưa thể hình dung nổi ngài Alther kiệt xuất đến mức nào. Nhưng trên hết thảy, ngài Alther là một người dễ mến. Nụ cười của bà chợt tắt khi bất giác nghĩ tới sự kiện mình đã thay vị trí của ngài như thế nào, và bà nghĩ về cái ngày cuối cùng của cuộc đời Alther Mella, cái ngày mà bây giờ ông Bảo hộ Toàn quyền gọi là Ngày Đầu.
Chìm đắm trong suy tư, bà Marcia bước lên những bậc thang hẹp dẫn lên gờ tường rộng, có mái che, chạy ngay dưới chân bức tường Lâu đài. Đó là một lối đi tắt tớ Bờ Đông, tên gọi mới hiện thời của khu Mở Rộng, và cũng là nơi hôm nay bà đang hướng tới. Gờ tường này được bảo tồn để cho đội Tuần tra Vũ trang Bảo hộ sử dụng nhưng bà Marcia biết rằng, ngay cả thời nay, không ai ngăn được Pháp sư Tối thượng đi bất cứ nơi nào. Vì vậy, thay vì len lỏi đi qua những hành lang vô tận, thỉnh thoảng đông cứng như nhiều năm trước vẫn đi, bà lại di chuyển dọc theo gờ tường cho đến khi, khoản chừng nửa giờ sau, bà trông thấy một cánh cửa và bà nhận ra chính là nó.
Bà Marcia hít một hơi thật sâu. Thế đấy, bà thầm nhủ. Bà đi theo một dãy cầu thang xuống gờ tường và đứng đối mặt với cánh cửa. Vừa cúi người định xô cánh cửa một cú thì nó đã hoảng sợ khi trông thấy bà và liền mở bung ra ngay. Bà Marcia lao vụt qua cánh cửa và tong ầm vào bức tường mỏng mảnh đổi diện. Cánh cửa đóng sập lại, và bà Marcia nín thở. Hành lanh tối hủ, ẩm ướt và bốc mùi bắp cải luộc, mùi nước đái và phân mèo khô. Cái này không như những thứ mà bà Marcia nhớ. Hồi bà sống ở trong khu Mở Rộng, những hành lang này từng rất ấm và sạch sẽ, được thắp sáng bằng những ngọn đuốc ống sậy, gắn cách khoảng dọc theo bức tường và được các cư dân đầy tự hào lau chùi mỗi ngày.
Bà Marcia hy vọng mình còn nhớ đường tới căn phòng của Sarah và Silas Heap. Trong những năm là học trò bà thường hay phóng vù qua cánh cửa nhà họ, hy vọng Silas Heap đứng trông thấy bà mà mời vào. Tiếng ồn ào là thừ bà nhớ nhất, tiếng náo loạn của đám nhóc con la hét, nhảy nhót, đánh nhau và làm bất cứ điều gì bọn con trai nhỏ hay làm, mặc dù bà Marcia không biết chắc bọn chúng hay làm gì- bởi vì bà thích tránh né cong trai hơn, nếu có thể tránh được.
Bà Marcia cảm thấy hơi hồi hộp khi bước dọc theo những hành lang thói om, ẩm thấp. Bà bắt đầu tự hỏi việc đã ra sao rồi kể từ lần đầu tiên bà đến nhà Silas hơn mười năm qua. Bà hãi hùng về điều mình sẽ phải nói cho gia đình Heap, thậm chí bà còn tự hỏi không biết Silas có tin mình không. Anh ta là một pháp sư bướng bỉnh, và bà biết anh ta không thích bà cho lắm. Cứ như vậy với những ý nghĩ quay cuồng trong đầu. mà Marcia bước dứt khoát dọc thep những hành lang và không để ý tớ bất kỳ điều gì khác.
Nếu bà chịu khó để ý một chút, thì chắc hẳn bà đã kinh ngạc trước những phản xạ của mọi người đối với bà. Lúc này là tám giờ sáng, giờ mà Silas Heap gị là giờ cao điểm. Hàng trăm con người mựt mày xanh xap hối hả trên dường đi làm, đôi mắt ngái ngủ của hò chớp chớp trong bóng tối, và bộ đồ rẻ tiền, mong manh ôm sát lấy người họ, những mong chống lại cái lạnh thấu xương phả ra từ những bức tường đá ẩm. Giờ cao điểm ở trong những hành lang của Bờ Đông là giờ phải tránh. Dòng người ùn ùn xô nhau đi, vượt qua cả ngỏ hẻm mà ai đó đang tính quẹo, cho tới khi người đó cố luồn lạc sao đó để xuyên qua được dòng người bên này và nhập được vào dòng người chiều bên kia. Bầu không khí giờ cao điểm luôn đầy ắp những tiếng ai oán:
“Cho tôi ra khỏi đây, làm ơn đi!”
“Đừng có đẩy tôi!”
“Để tôi quẹo, tôi quẹo!”
Nhưng bà Marcia đã làm cho giờ cao điểm biến mất. Không cần thiết phải dùng đến pháp thuật ở đây- chỉ nội việc bà Marcia xuất hiện thôi cũng đã đủ khiến cho tất cả mọi người đang đi bỗn ngừng phắt lại rồi. Trước giờ hầu hết cư dân của Bờ Đông đều chưa từng trông thấy Pháp sư Tối thượng. Nếu họ trông thấy bà chút nào đó, thì chắc hẳn là do họ đã đi một ngày đường tới Trung tâm Tham quan của Tháp Pháp sư, và nấn ná ở khoảng sân cả ngày, hy vọng mình may mắn thoáng thấy được bà. Vì thế cho nên việc Pháp sư Tối thượng cùng đi với họ trong trong những hành lang nhớp nháp của Bờ Đông là điều không thể tin nổi.
Mọi người há hốc miện và co rúm lại. Họ tan cháy vào những hốc cửa tăm tối và lỉnh biến vào những ngõ ngách bên hông nhà. Họ lầm rầm niệm chú. Một số khác đông cứng lại và đứng ngây ra tại chỗ, hệt những con thỏ bị một luồng ánh sáng chói lòa lia trúng. Họ dòm bà Marcia trao tráo như thể bà là một sinh vật đến từ hành tinh khác; mà đúng ra bà đã phải dọn ra cái hành tinh ấy chính vì những sự khác nhau giữa cuộc sống của bà và của họ.
Nhưng bà Marcia thật sự không nhận ra điều này. Mười năm làm Pháp sư Tối thượng đã tách biệt bà khỏi cuộc sống thực, và cho dù có sửng sốt đến đâu chăng nữa khi lần đầu tiên việc đó xảy ra, thì bây giờ bà cũng đã quen với việc người ta dạt ra nhường đường cho mình, cúi chào và lẩm nhẩm những lời tôn kính quanh mình.
Bà Marcia bước ra khỏi đường phố chính và rẽ vào hành lang hẹp dẫn tới nhà của gia đình Heap. Trên đường đi bà Marcia nhận thấy tất cả những hành lang bây giờ đều được đánh số, thay thế cho những cái tên kỳ quặc của chúng trước kia, chẳng hạn như Góc gió, Hẻm ngược.
Địa chỉ hồi trước của gia đình Heap là: Cửa Đỏ lớn, Lô tới và Lùi lại, khu Mở Rộng.
Bây giờ hóa ra nó lại là thế này: Phòng 16, Hành lang 233, Bờ Đông. Bà Marcia biết rõ mình thích tên nào hơn.
Bà Marcia đã tớ cửa nhà Heap, cánh cửa vừa bị đội Tuần Sơn sơn đen cách đây vài ngày. Bà nghe được tiếng huyên náo ầm ĩ của bữa sáng nhà Heap ở đằng sau cánh cửa. Bà hít thở vài hơi thật sâu.
Bà không thể trì hoãn khoảnh khắc này lâu hơn được nữa.

Chương 5: Tại nhà Heap

"Mở," bà Marcia bảo cánh cửa đen nhà Heap.
Nhưng, là một cánh cửa thuộc quyền Silas Heap, nó chẳng nhúc nhích gì cả. Chưa kể, bà Marcia nghĩ, bà còn thấy nó thít chặt lại bản lề và tự vặn ổ khóa lại chắc hơn. Vì thế cho nên, Quý bà Marcia Overstrand, Pháp sư Tối thượng, phải hạ mình phang cánh cửa mạnh hết sức. Không ai trả lời. Bà phang lần nữa, mạnh hơn và bằng cả hai nắm đấm, nhưng vẫn không phản hồi. Ngay khi bà vừa định đạp cho cánh cửa một cú ra trò (và thật đáng đời nó) thì cánh cửa bật mở toang ra, và bà Marcia đứng mặt đối mặt với Silas Heap.
"Hả?" Ông sẵng giọng như thể bà không hơn một người chào hàng bám dai như đỉa.
Trong thoáng chốc, bà Marcia á khẩu. Bà nhìn sượt qua vai Silas, thấy một căn phòng hình như vừa mới bị nổ bom và bây giờ, và lý do gì đó, bỗng đầy nhóc bọn con trai. Những chú bé bu quanh một bé gái nhỏ tóc đen, đang ngồi tại một cái bàn phủ khăn trắng sạch một cách đáng ngạc nhiên. Đứa bé gái đang cầm một món quà nhỏ gói giấy màu rực rỡ và cột ruy-băng đỏ, cười hớn hở và đấy mấy thằng bé đang giả bộ giật lấy quà của mình ra. Nhưng lần lượt từng đứa một, cô bé rồi tất cả bọn con trai ngẩng đầu lên, và một sự im lặng lạ lùng rơi tõm xuồn gia đình Heap.
"Chào, Silas Heap," bà Marcia nói, có phần hơi quá lịch thiệp. "Và chào Sarah Heap. Và, è, chào tất cả các Heap con."
Các Heap con, mà hầu hết không còn nhỏ nữa, chả nói gì. Nhưng sáu cặp mắt xanh lá cây biếc và một cặp mắt tím đậm đảo khắp từng chi tiết trên người bà Marcia Overstrand. Bà Marcia bỗng cảm thấy ngượng ngập. Liệu mình có vết bẩn nào trên mũi hay không? Có mớ tóc nào của mình chỉa ra kỳ cục chăng? Hay có lẽ răng mình dính rau dền?
Bà Marcia tự nhắc nhở mình rằng bữa sáng nay mình không hề ăn rau dền. Tiến lên nào, Marcia, bà tự động viên. Mi thống lĩnh nơi này cơ mà. Thế là bà quay qua Silas, đang nhìn bà như thể hy vọng bà sẽ chóng rời đi.
"Tôi nói xin chào, Silas Heap," bà Marcia giận dữ.
"Quả đúng thế, Marcia, đúng thế,"Silas nói. "Và điều gì mang cô tới đây sau gần ấy năm thế?"
Bà Marcia đi thẳng vào vấn đề.
"Tôi đến đón Công chúa," bà nói.
"Ai?" Silas hỏi.
"Anh biết rõ mười mươi là ai mà," bà Marcia quặc lại, bà vốn không thích bị bất cứ ai, nhất là Silas Heap, chất vấn.
"Chúng tôi không có Công chúa nào ở đây cả, Marcia," Silas nói. "Điều đó là hiển nhiên."
Bà Marcia nhìn quanh quất. Đúng thật, chẳng ai lại nghĩ đến việc tìm thấy một Công chúa ở đây cả. Đúng hơn, trong đời mình, bà Marcia chưa thấy chỗ nào bừa bãi như thế.
Giữa đống hỗn độn ấy, bên cạnh ngọn lửa mới nhóm, là Sarah đang đứng. Sarah đang nấu món cháo cho bữa sáng sinh nhật thì bà Marcia xông vào nhà bà, và vào luôn cuộc đời bà. Bây giờ bà đứng ngây như phỗng, tay bưng nồi cháo và nhìn trân trân vào Marcia. Có cái gì đó trong ánh mắt Sarah nói cho Marcia hiểu rằng bà biết việc gì sắp xảy ra. Thế này thì, bà Marcia nghĩ, sẽ không dễ dàng đâu. Bà quyết định dằn nén sự hung hãn và làm lại từ đầu.
"Làm ơn cho tôi ngồi xuống, được không, Silas...Sarah?" Bà hỏi.
Sarah gật đầu. Silas nhăn nhó. Không ai nói gì.
Silas liếc qua Sarah. Sarah đang ngồi xuống, mặt trắng bệch, run rấy và quơ cô bé sinh nhật đặt lên đùi mình, ôm thật chặt. Silas mong ước bà Marcia đi khỏi hơn bất cứ điều gì khác và để cho họ yên, nhưng ông biết vợ chồng mình cần phải nghe nhwuxng gì bà ta sắp nói. Ông thở dài đánh thượt và nói:
"Nicko, lấy ghế mời bà Marcia."
"Cảm ơn, Nicko," bà Marcia nói khi ngần ngừ ngồi xuống một trong những chiếc ghế tự đóng của Silas. Nicko tóc bù xù nhe răng cười ngoác với bà Marcia và rút lui vào với các anh mình; bọn chúng đang lởn vởn xung quanh Sarah với ý định bảo vệ mẹ.
Bà Marcia dòm gia đình Heap chằm chằm và sửng sốt, sao mà tất cả bọn họ giống nhau đến thế. Tất cả họ, kể cả Sarah và Silas, đều có tóc quăn màu rơm, và dĩ nhiên tất cả họ đều có mắt xanh lá cây biếc của pháp sư. Và ở giữa đám nhà Heap là Công chúa đang ngồi, mái tóc đen thẳng, mắt tím đậm. Bà Marcia rên thầm trong bụng. Đối với bà, tất cả bọn bon nít đều giống hệt nhau, và bà đã không bao giờ ngờ được Công chúa lại khác biệt gia đình nhà Heap đến thế khi cô lớn lên. Chả trách, hèn chi mà tên gián điệp đã phát giác ra cô bé.
Silas Heap ngồi lên một cái rương úp ngược.
"Hừm, Marcia, có chuyện gì vậy?" Ông nói.
Miệng bà Marcia khô rang:
"Anh có ly nước nào không?" Bà hỏi.
Jenna lụi hụi trườn khỏi đùi Sarah và đi lại gần bà Marcia, chìa ra một cái ca gỗ mòn vẹt, có dấu răng vòng khắp miệng ca.
"Đây ạ, đây là nước của cháu. Không sao đâu."
Cô bé nhìn bà Marcia chăm chú, đầy vẻ ngưỡng mộ. Jenna chưa từng trông thấy ai giống như bà Marcia, không ai lại đỏ tía một màu, bóng loáng, trông sạch sẽ và sang trọng đến thế, và không ai mang giày mũi nhọn như vậy.
Bà Marcia nhìn vào cái ca vẻ ngờ vực, nhưng rồi, nhớ ra ai đã trao nó cho mình, bèn nói:
"Cảm ơn, Công chúa. À, è, thần có thể gọi Người là Jenna được không?"
Jenna không đáp. Cô bé quá mải mê ngắm đôi giày tía của bà Marcia.
"Trả lời bà Marcia đi, cưng," Sarah Heap nhắc.
"Dạ, ờm, được ạ, thưa bà Marcia,"Jenna nói, lúng túng nhưng lễ phép.
"Cảm ơn Jenna. Rất vui vì lần này được gặp tất cả các quý vị. Và vui lòng gọi tôi là Marcia," bà Marcia nói, bà không thể không nghĩ Jenna trông giống mẹ cô biết chừng nào.
Jenna lui trở lại bên cạnh Sarah, và bà Marcia cố gắng uống một ngụm nước từ cái ca bị gặm.
“Nói mau đi, Marcia,” Silas phán từ cái rương lộn ngược của mình. “Chuyện gì thế? Như thường lệ, xem ra chúng tôi luôn là những kẻ cuối cùng biết chuyện.”
“Silas, anh và Sarah biết ai …è…Jenna… là ai không?”
“Biế chứ. Jenna là con gái của chúng tôi, chứ còn là ai nữa?” Silas nói với vẻ ngang ngạnh.
“Nhưng cô đoán được mà, phải không?” Bà Marcia nói, lái ánh mắt qua phía Sarah.
“Phải,” Sarah lẳng lặng nói.
“Vậy là cô sẽ hiểu khi tôi nói rằng cô bé không còn an toàn ở đây nữa. Tôi cần mang cô bé đi. Ngay bây giờ,” bà Marcia nói gấp.
“không!” Jenna thét lên. “Không!”
Cô bé trèo trở lên đùi Sarah. Sarah ôm chầm lấy cô bé.
Silas nổi xung thiên:
“Marcia, không phải cứ Pháp sư Tối thượng là cô nghĩ cô có thể bước vào đây và ngang nhiên xáo tung cuộc sống của chúng tôi lên đấy nhé. Chắc chắn cô không mang Jenna đi được. Nó là con chúng tôi. Con gái duy nhất của chúng tôi. Nó an toàn tuyệt đối ở đây và nó sống với chúng tôi.”
“Silas,” bà Marcia thở dài. “Cô bé không an toàn với anh chị được. Không còn an toàn nữa. Cô bé đã bị phát hiện. Quý vị có một tên gián điệp ở ngay sát vách. Linda Lane”
“Linda!” Sarah sững sờ. “Gián điệp? Tôi không tin.”
“Ý cô là cái bà già lắm lời lúc nào cũng lảng vảng ở đây ba hoa về thuốc viên thuốc nước và không ngừng vẽ tranh bọn trẻ ấy hả?” Silas hỏi.
“Silas!” Sarah phản đối. “Đừng thô lỗ thế”
“Tôi sẽ thô lỗ hơn nữa với mụ ta nếu mụ là gián điệp” Silas lớn tiếng.
“Không có nếu niếc gì về chuyện đó cả, Silas,” bà Marcia nói. “Linda Lane là tên gián điệp cáo già nhất. Và tôi tin chắc là những bức tranh mụ ta vẽ sẽ chứng tỏ là rất có ích cho Bảo hộ Toàn quyền.”
Silas rên rỉ. Bà Marcia đã thắng thế.
“Silas này, tôi chỉ muốn điều tốt nhất cho Jenna. Anh cần phải tin tôi.”
Silas khịt mũi:
“Việc quái gì tôi phải tin cô, hả Marcia?”
“Bởi vì tôi tin cậy giao Công chúa cho anh, Silas à,” bà Marcia nói. “Giờ anh phải tin tôi. Chuyện từng xảy ra mười năm trước giờ tuyệt đối không được tái diễn nữa.”
“Cô quên rằng, Marcia,” Silas gay gắt, “chúng tôi không biết chuyện gì xảy ra mười năm trước. Không ai chịu hạ cố cho chúng tôi biết.”
Bà Marcia thở dài:
“Làm sao tôi có thể nói cho anh biết được, Silas? Đó là điều tốt nhất cho Công chúa. Ý tôi là vì lợi ích của Jenna, anh không biết thì hơn.”
Lại nghe nhắc đến Công chúa, Jenna ngước lên nhìn Sarah.
“Lúc nãy bà Marcia cũng gọi con như thế,” cô bé thì thào. “Có đúng đó là con không?”
“Phải, cưng à,” Sarah thì thầm đáp lại, rồi bà ngước lên nhìn thẳng vào mắt à Marcia và nói:
“Tôi nghĩ tất cả chúng tôi cần biết việc gì đã xảy ra mười năm trước, Marcia.”
Bà Marcia nhìn đồng hồ. Phải nhanh lên mới được. Bà hít một hơi rồi bắt đầu.
“Mười năm trước,” bà kể, “tôi vừa mới vượt qua kỳ thi cuối cùng của mình và đến thăm ngài Alther để cảm ơn ngài. Ừm, ngay khi tôi vừa tới thì một người đưa tin chạy thục mạng vào và báo cho ngài biết là Nữ hoàng vừa sinh được một bé gái. Chúng tôi sung sướng vô ngần - như thế có nghĩa là cuối cùng người thừa kế Lâu đài đã xuất hiện.
“Người đưa tin đó thỉnh hồi ngài Alther vào Cung điện để thực hiện nghi lễ chào mừng Công chúa vừa ra đời. Tôi đi cùng với ngài để phụ mang tất cả những quyển sách ngặng chịch, thuốc và bùa mà ngài cần; và để nhắc nhở ngài thứ tự các việc phải làm, bởi vì ngài Alther già nua thỉnh thoảng cũng hay quên.
“Khi tới Cung điện thì chúng tôi được đẫn vào phòng Thiết triều để gặp Nữ hoàng. Người đang rất hạnh phúc – quá đỗi hạnh phúc. Người ngồi trên ngai vàng ẵm đứa con mới sinh của mình, và chào đón chúng tôi bằng câu “Nó xinh không này?” và đó là những lời cuối cùng Nữ hoàng nói ra.”
“Ôi không,” Sarah lặng lẽ nói thầm.
“Đúng lúc ấy, một gã đàn ông mặc đồng phục đen và đỏ rất dị kỳ phóng vào phòng. Dĩ nhiên, bây giờ tôi biết là hắn mặc đồng phục của Ám sát binh, nhưng lúc ấy tôi không hề biết. Tôi nghĩ chắc là một người đưa tin gì đó, nhưng tôi có thể thấy từ nét mặt của Nữ hoàng rằng Người không hề chờ hắn. Rồi tôi thấy hắn cầm một khẩu súng bạc dài, và tôi sợ khiếp đảm. Tôi liếc ngài Alther nhưng ngài đang lui cui với đống sách của mình nên không nhận ra. Rồi… tất cả cứ như là không thực vậy… tôi thấy tên lính từ từ và thận trọng nâng súng lên, nhắm và bắn thẳng vào Nữ haòng. Tất cả mọi thứ im ắng kinh khủng khi viên đạn bạc xuyên thẳng qua tim Nữ hoàng và găm vào bức tường đằng sau người. Công chúa khóc thét lên và bật khỏi cánh tay người mẹ đã chết của mình . Tôi lao tớ và chụp lấy cô bé.”
Mặt Jenna nhợt nhạt, cố hiểu những gì mình đang nghe.
“Đó là con phải không?” Cô bé hạ thấp giọng hỏi Sarah. “Con là Công chúa mới sinh phải không?”
Sarah chậm chạp gật đầu.
giọng bà Marcia hơi run khi nói tiếp:
“Thật kinh khủng! Ngài Alther vừa bắt đầu niệm thần chú Lá Chắn thì một viên đạn khác bắng ra, và viên đạn hất tung ngài lên và quăng ngài xuống sàn. Tôi kết thúc cầu thần chú của ngài Alther giúp ngài, và trong tích tắc cả ba chúng tôi an toàn. Tên Ám sát binh bắn tiếp viên nữa - lần này nhằm vào tôi và Công chúa – nhưng viên đạn văng khỏi tấm khiên vô hình và bật thẳng trở lại, cắm vào đùi hắn. Hắn đổ vật xuống sàn, nhưng tay vẫn cầm súng. Hắn cứ nằm đó và nhìn chúng tôi trừng trừng, chờ cho bùa mê phai đi, như tất cả mọi loại bùa mê đều phải phai.
“Ngài Alther đang hấp thối. Ngài tháo tấm bùa Hộ mạng Akhu ra và trao cho tôi. Tôi chắc chắn nó có thể cứu ngài, nhưng ngài biết rõ hơn tôi. Ngài rất bình tĩnh nói với tôi rằng giờ là lúc ngài phải đi. Ngài mỉm cười và rồi… và rồi, chết”
Căn phòng im lặng. Không ai cựa quậy. Thậm chí cả Silas cũng nhìn chằm chặp xuống sàn. Bà Marcia nói tiếp bằng giọng trầm thấp.
“Tôi… tôi không thể tin nổi. Tôi cột tấm bùa Hộ mạng Akhu quanh cổ và ẵm Công chúa mới sinh. Công chúa đang khóc, ồ, cả hai chúng tôi đều khóc chứ. Rồi tôi chạy. Tôi chạy nhanh đến nỗi Ám sát binh không còn thời gian để bắn khẩu súng của hắn..
“Tôi chạy đến Tháp Pháp sư. Tôi không thể nghĩ ra nơi nào hơn. Tôi báo cho những pháp sư khác biết hung tin và yêu cầu bảo vệ, và họ đã bảo vệ chúgn tôi. Suốt buổi chiều chúng tôi bàn bạc sẽ pảhi làm gì với Công chúa. Chúng tôi biết bé không thể ở lâu trong Tháp Pháp sư được. Chung tối không thể bảo vệ bé mãi mãi. Và lại, Công chúa vừa mới được sinh ra, rất cần một người mẹ. Chíng lúc đó tôi nghĩ đến cô, Sarah ạ”.
Sarah ngạc nhiên.
“Ngài Alther thường hay kể cho tôi nghe về cô và Silas. Tôi biết cô vừa sinh một bé trái. Trong Tháp Pháp sư người ta bảo đó là người con trai thứ bảy của người con trai thứ bảy. Tôi không biết là sau đó cậu bé đã chết. Tôi rất tiếc khi nghe tin này. Nhưng tôi biết là cô sẽ yêu Công chúa và sẽ làm cho cô bé hạnh phúc. Vì vậy chúng tôi quyết định là cô sẽ nuôi đứa trẻ”
“Nhưng tôi không thể đi tới khu Mở Rộng và trao bé cho cô được. Chắc chắn sẽ có người trông thấy tôi. Vì vậy, sẩm tối hôm đó, tôi đem Công chúa ra khỏi Lâu đài và đặt bé lên tuyết, chắc chắn là anh, Silas, sẽ tìm thấy bé. Và đúng vậy. Tôi không thể làm gì khác hơn…
“… Ngoài việc, sau khi Gringe nhũng nhiễu đòi tôi cho lão nửa đồgn crao, oàoi núp trong bóng tối và theo dõi anh về nhà. Khi tôi thấy cái cách anh giữ áo chùng cách anh bước đi như bảo vệ một báu vật, tôi biết là anh đang ẵm Công chúa, và anh nhớ không, tôi đã bảo anh, ‘Cấm được nói cho ai biết về con bé. Nó sinh là để dành cho anh. Hiểu chứ?”
Một bầu thinh lặng treo lơ lửng trong căn phòng. Silas dám mắt xuống sàn, Sarah ngồi bất động với Jenna, và tất cả bọn con trai trông như bị sét đánh. Bà Marcia lặng lặng đứng lên, và từ trong túi áo chẽn của mình, bà lôi ra một cái túi nhỏ bằng nhung đỏ. Rồi bà băng qua phòng, cản thận để không dẫm phải bất cứ thứ gì, nhất là con chó sói to bự, chẳng hề sạch tí nào mà bà vừa nhận thấy đang nằm ngủ giũ một động chăn mền.

[SÁNG TÁC VĂN HỌC-KST.VN-QUÀ TẶNG HẤP DẪN]

Report




KSTS


Cash
1892 K$D
Posts
720

Space
Add
Poke
PM
5#
kuisuira Post on 1-10-2010 10:00:47 |View kuisuira's posts Gia đình Heap trố mắt nhìn, như bị thôi miên, khi bà Marcia nghiêm trang bước tới Jenna. Lũ con trai nhà Heap tản ra vẻ kính trọng lúc bà Marcia dừng lại trước Sarah và Jenna, và quỳ gối xuống.
Jenna tròn xoe mắt nhìn bà Marcia mở cái túi nhung và lấy ra một cái vòng nhỏ bằng vàng.
“Thưa Công chúa,” bà Marcia nói. “Đây là của mẹ Người, và giờ là của Người”
Bà Marcia tiến tới và đội chiếc vòng vàng lên đầu Jenna. Nó vừa khít.
Silas cất tiếng:
“Được rồi, Marcia, giờ thì đã rõ,” ông cáu kỉnh. “Con mèo đã chui ra khỏi bọc.”
Bà Marcia đứng lên và phủi bụi khỏi áo chùng của mình, Khi bà làm vậy, thì ngạc nhiên hết sức, hồn mà Alther Mella xuyên qua bức tường và đáp xuốgn ngày bên cạnh Sarah Heap”
“À, ngài Alther đến,” Silas nói. “Ngài sẽ không hài lòng với chuyện này đâu, tôi bảo đảm”
“Chào Silas, Sarah. Chào, tất cả các pháp sư trẻ của ta”
Đám con trai nhà Heap cười tít. Mọi người gọi chúgn bằng đủ thứ tên, nhưng chỉ có ngài Alther gọi chúng là pháp sự.
“Và chào Công chúa nhỏ của ta” ngài Alther nói, ngài vẫn hay gọi Jenna như thế. Và giờ Jenna dã biết tại sao.
“Chào cụ Alther,” Jenna nói,c ảm tháy vui sướng hơn lên với con ma già trôi bồng bềnh bên cạnh mình.
“Ta không biết là cả ngài Alther cũng tới thăm cháu,” bà Marcia nói, hơi bực bội, mặc dù bà có vẻ nhẹ nhõm khi thấy ngài.
“Hừm, tôi là học trò của ngài ấy trước,” Silas găt. “Trướ khi cô chen vô”
“Tôi không chen vô. Mà anh bỏ cuộc. Anh nài nỉ ngài Alther huỷ bỏ vị trí học trò của anh. Anh nói anh thích đọc truyện trước giờ đi ngủ cho các con trài hơn là bị nhốtt rong tháp, dí mũi vào một quyển sách bùa chú mục nát. Thỉnh thoảng anh thật sự khùng đấy, Silas à.” Bà Marcia trừng mắt
”Các trò, các trò, thôi đừng cãi nhau nữa,” ngài Althể mỉm cười. “Ta yêu cả hai người như nhau.Tất cả mọi học trò của ta đều đặc biệt hết.”
Hồn ma Alther Mella hơi loé lên trong hơi nóng của ngọn lửa. Ngài mặc áo chùng PHáp sư Tối thượng ma. Nó vẫn còn những vết máu trến đó, điều luôn làm bà Marcia nổi giận mỗi khi trông thấy. Mái tóc dài trắng của ngài Alther được cột gọn ghẽ thành đuôi ngựa và bộ râu cảu ngài được tỉa tót nhọn hoặt. Khi còn sống, tóc và râu của ngài Alther luôn rối bù – ngài không bào giờ theo kịp vơi tốc độ mọc ra nhanh chóng cảu chúng. Nhưng giờ, khi đã là ma, thì việc đó thật dễ. Ngài vừa chải râu tóc xong cach đây mười năm và giờ chúng vẫn giữ nguyên như thế. Đôi mắt xanh lá cây của ngài Alther ít sáng lấp lánh hơn hồi ngài còn sống, nhưng chúng ngó quanh vãn tinh tường như thuở nào. Và khi nhìn căn phòng nhà Heap, chúng lộ vẻ buồn rầu. Mọi thứ sắp sửa thay đổi rồi.
“Hãy nói cho cô ta, thưa ngài Alther,” Silas khẩn khoản. “Rằng cô ta không thể mang Jenna của chúng thần đi được. Là Công chúa hay không,cô ta cũng sẽ không có được con bé.”
“Ước gì ta có thể nói thế, Silas, nhưng ta không thể,” ngài Althể, nói, trông nghiêm nghị. “Các người đã bị lộ. Một tên Ám sát binh săp tới. Mụ sẽ tới đây vào nửa đem với khẩu súng bạc. Anh biết thế có nghĩa là gì rồi đấy.”
Sarah Heap vùi mặt vào lòng bàn tay.
“Không!” Bà thổn thức.
“Đành vậy,” ngài Alther nói, giọng run run và tay ngài sờ lỗ đạn nhỏ ngay bên dưới tim mình.
“Chúng tôi có thể làm gì bây giờ?” Sarah hỏi rất nhỏ và đỡ đẫn.
“Marcia sẽ đưa Jenna tới Tháp Pháp sư” Alther nói. “Jenna sẽ an toàn ở đó ít lâu. Rồi sau đó chúng ta sẽ nghĩ xem tiếp theo phải làm gì.” Ngài nhìn Sarah. “Con và Silas phải đi khỏi đây cùng với bọn trẻ. Ở nơi nào đó an toàn mà các con không bị tìm ra.”
Sarah tái nhợt, nhưng giọng bà cứng cỏi:
“Chúng con sẽ đi vào cánh rừng,” bà nói. “Chúng con sẽ sống với bà Galen.”
Bà Marcia lại nhìn đồng hồ. Trễ rồi.
“Tôi cần phải mang Jenna đi ngay,” bà hấp tấp. “Tôi phải trở về trướ khi họ thay phiên gác.”
“Cháu không muốn đi đâu,” Jenna thì thầm. “Cháu không phải đi, đúng không cụ Alther? Cháu cũng muốn đến sống với bà Galen. Cháu muốn sống chung với tát cả mọi người. Cháu không muốn sống một mình,” môi dưới của Jenna giật giật, mắt cô bé đầm đìa nước. Cô bé ôm chặt lấy Sarah.
“Cháu không sống một mình, mà sốgn với Marcia,” ngài Alther dịu dàng. Jenna chẳng có vẻ gì khá hơn khi nghe như thế.
“Công chúa nhỏ của ta,” ngài Alther nói tiếp. “Bà Marcia nói đúng. Cháu phải đi với bà ấy. Chỉ bà ấy có thể bảo vệ cháu.”
Jenna vẫn có vẻ hoài nghi.
“Jenna,” hồn ma Alther nghiêm giọng. “cháu là vị thừa kế Lâu đài, và Lâu đài cần cháu được an toàn để một ngày kia cháu sẽ trở thành Nữ hoàng. Cháu phải đi với bà Marcia. Làm ơn đi”.
Hai bàn tay Jenna lần sờ chiếc vòng tròn nhỏ bà Marcia vừa đội lên đầu mình. Đâu đó trong lòng cô bé bắt đầu cảm thấy khác đi.
“Thôi được,” Jenna thì thầm. “Cháu sẽ đi”.

Chương 6: Đường tới Tháp Pháp sư

Jenna không thể tin nổi những gì đang xảy ra với mình. Cô bé gần như không có thời gian để hôn tạm biệt tất cả mọi người trước khi bà Marcia trùm ụp tấm áo chùng màu tía của bà lên người cô, và giục cô bám sát theo bà. Sau đó cánh cửa lớn màu đen nhà Heap miễn cưỡng mở ra, và Jenna bị xua đi khỏi ngôi nhà duy nhất mà cô bé từng biết.
Có lẽ cũng tốt cho Jenna, nhờ tấm áo chùng của bà Marcia che kín mít, nên đã không thể trông thấy vẻ mặt hoang mang ngơ ngác của sáu anh em nhà Heap hay vẻ mặt âu sầu của Sarah và Silas Heap, khi họ nhìn khối áo chùng tía bốn chân quẹo vút vào góc cuối hành lang 223, và biến mất khỏi tầm nhìn.
Bà Marcia và Jenna đi theo lộ trình dài trở lại Tháp Pháp sư. Bà Marcia không muốn liều mạng bị ai nhìn thấy đang ở ngoài trời với Jenna; và những hành lang tối om, ngoằn ngoèo của Bờ Đông xem ra an toàn hơn lối đi tắt mà bà đi hồi sáng. Bà Marcia sải bước xăng xái, và Jenna phải cắm đầu chạy bên cạnh bà, hi vọng theo kịp. May làm sao. Tất cả những gì cô bé phải mang theo chỉ là chiếc ba lô nhỏ đeo trên lưng, chứa vài báu vật để nhắc nhở cô bé nhớ đến mái nhà của mình, mặc dù trong lúc vội vã cô đã bỏ quên món quà sinh nhật.
Lúc này là lưng buổi và giờ cao điểm đã qua. Thật nhẹ nhõm đối với bà Marcia, những hành lang nhớp nháp hầu như vắng tanh khi bà và Jenna hối hả đi qua, thành thạo quẹo từng ngã rẽ, vớ những ký ức về những chuyến đi tới Tháp Pháp sư ngày xưa ùa về trong bà.
Ẩn dưới tấm áo chùng nặng chịch của bà Marcia, Jeenna hầu như không trông thấy gì, vì vậy cô bé tập trung nhìn lom lom vào hay cặp bàn chân dưới đất; đôi bàn chân nhỏ xinh, bọc trong đôi ủng màu nâu nhếc nhác, bước những bước lập bập ngắn ngủn của cô; và bàn chân nhọn, dài trong giày da trăn màu tía của bà Marcia, đang dẫm băng băng lên những thứ xám xì, lớp nhớp, bên dưới họ. Loáng sau Jenna đã thôi không chú ý đến ủng của mình nữa, mà bắt đầu bị hút hồn vào đôi giày da trăn nhọn hoắt đang nhảy múa phía trước mình- trái, phải, trái, phải, trái, phải- khi họ bươn qua biết bao dặm hành lang, vô tận.
Theo cách đó, bộ đôi lạ lùng đã lướt qua Lâu đài mà không hề hay biết. Đi ngang qua những cánh cửa nặng nề, lầm sầm, che chắn bao xưởng thợ; ở đó, những cư dân Bờ Đông đang miệt mài lao động những giờ dài, đóng ủng, ủ bia, may quần áo, đóng thuyền, đóng giường, gò yên ngựa, làm nến, khâu buồm, nướng bánh mì, và gần đây, họ chế tạo cả súng, may đồng phục và rèn xiềng xích; đi ngang qua nhũng phòng học lạnh lẽo, nơi đám trẻ lười ê a đọc thời dụng biểu đến lần thứ mười ba, những cửa hàng trống hoác, dội âm, nơi Quân đội Bảo hộ vừa mới chiếm hầu hết các cửa tiệm mùa dông để trưng dụng cho mình.
Mãi cuối cùng bà Marcia và Jenna mới vượt qua mái vòm dẫn đến khoảng sân hẹp của Tháp Pháp sư. Jenna nín thở trong bầu không khí lạnh và hé nhìn ra từ bên dưới tấm áo chùng.
Cô bé kinh ngạc.
Sừng sững trước mặt cô bé là Tháp Pháp sư, cao đến nỗi đỉnh chop Kim tự tháp màu vàng óng hầu như biến hẳn vào làn mây thấp. Tháp Pháp sư tỏa chiếu một quảng sân sáng bạc dưới ánh nắng mặt trời mùa đông, chói lòa đến độ làm đau mắt Jenna, và những tấm kính màu tía trên hàng trăm cửa sổ tí hon của tháp lấp lánh và chấp chóa, với một khoảng tồi huyền bí phản chiếu ánh sáng và cất giữ những bí mật đằng sau những ô cửa sổ. Một màn sương mỏng màu xanh da trời bay lãng đãng quanh Tháp Pháp sư, làm mờ đi những ranh giới của tháp, và Jenna thấy thật khó nói đâu là nơi tháp kết thúc và đâu là nơi bầu trời bắt đầu. Không khí cũng khác một trời một vực- có mùi ngòn ngọt, là lạ, mùi pháp thuật và mùi bùa ngải xưa. Và Jenna đứng đó, không thể dấn thêm được bước nào nữa, cô bé biết mình đang bị bao quanh bởi những tiếng niệm thần chú và ếm bùa, nhẹ đến nỗi không thể nghe thấy được.
Lần đầu tiên kể từ khi rời nhà, cô bé thấy sợ hãi.
Bà Marcia vòng cánh tay bảo bọc quanh vai Jenna, bởi vì chính bà Marcia nhớ lại lần đầu tiên, khi trông thấy Tháp Pháp sư mình đã như thế nào. Kinh hãi.
“Đi nào, sắp tới nơi rồi,” bà Marcia lầm thầm giục giã, và họ dắt díu nhau băng qua khoảng sân đầy tuyết về phía nhũng bậc thang khổng lồ bằng đá cẩm thạch dần lên tiền sảnh bạc lấp lánh. Bà Marcia tập trung chú ý giữ thăng bằng, và không phải lúc chạm chân lên cầu thang bà bớ nhận thấy không còn tên lính canh nữa. Bà nhìn đồng hồ, thấp thỏm. Phải mười lăm phút nữa mới đổi ca gác, vậy, thằng nhỏ ném tuyết mà bà nói chuyện hồi sáng đâu rồi?
Bà Marcia nhìn quanh, tặc lưỡi một mình. Có gì đó không ổn rồi. Tên lính canh không có ở đây. Và đúng là nó vẫn còn ở đây. Bà bất thình lình nhận ra, nó rão ràng là đang Còn Đây mà cũng Không Còn Đây.
Nó sắp chết.
Bà Marcia đột ngột phóng về phía cải đụn nhỏ bên cạnh cổng vòm, khiến Jenna ngã lăn ra khỏi áo chùng.
“Đào!” bà Marcia rít lên, lụi hụi cào bới đống tuyết. “Nó ở đây. Đông cứng rồi.”
Bên dưới ụ tuyết là cái thân hình trắng bợt, gầy còm của tên lính canh. Nó nắm cuộn tròn như một trái banh và bộ đồng phục cô-tông mỏng dính của nó ướt sũng tuyết và bám lấy thân, lạnh ngắt. Những màu sắc diêm dúa của bộ đồng phục lập dì trông chói lói dưới ánh mặt trời mùa đông lạnh giá. Jenna run bắn trước cảnh tượng thằng bé, không phải vì lạnh mà vì một ký ức không lời mập mờ nào đó chợt thoáng vụt qua trong tâm trí cô bé. Bà Marcia cẩn thận móc tuyết ra khỏi hốc miện xanh mét của thằng nhỏ, trong khi Jenna đặt bàn tay lên cánh tay trắng, gầy như que tăm của nó. Cô bé chưa bao giờ cảm thấy ai lạnh như thế này. Hay là cậu ta chết rồi chăng?
Jenna nhìn bà Marcia cúi xuống khuôn mặt thằng nhỏ và rù rì cái gì đó trong hơi thở của bà. Bà Marcia ngừng lại, lắng nghe và trông có vẻ lo lắng. Thế rồi bà lại rù rì tiếp, lần này nghe gấp gáp hơn.
“Đập nhanh, nhóc. Đập nhanh.”
Bà dừng lại một chút, rồi lại thở một hơn thật chậm, thật dài lên mặt thằng nhỏ. Hơi thở run rẩy không ngừng từ miệng bà Marcia tuôn ra, tuôn mãi, một vệt mây hồng nhạt, âm ấm bao quanh miệng và mũi thằng nỏ, và chầm chậm, chầm chậm nó tống khứ mảng màu xanh khủng khiếp kia đi, nhường cho sắc ửng đỏ của sự sống. Thành nhỏ không hề nhúc nhích, nhưng Jenna nghĩ lúc này cô bé đã thấy một nhịp lên xuống yếu ớt nơi lồng ngực nó. Nó đang thở trở lại.
“Lẹ lên!” Bà Marcia thì thầm với Jenna. “Nó sẽ chẳng sống được nếu chúng ta để nó ở đây. Chúng ta cần phải đưa nó vào trong.
Bà Marcia xốc thằng nhỏ lên cánh tay và bê nó lên những bậc thang cẩm thạch rộng. Khi bà lên tới đỉnh, những cánh cửa bạc đặc dẫn tới Tháp Pháp sư lặng lẽ bung mở ra trước mặt họ. Jenna hít một hơi và đi theo bà Marcia cùng tên lính vào trong.

[SÁNG TÁC VĂN HỌC-KST.VN-QUÀ TẶNG HẤP DẪN]

Report




KSTS


Cash
1892 K$D
Posts
720

Space
Add
Poke
PM
6#
kuisuira Post on 1-10-2010 10:02:58 |View kuisuira's posts Chương 7: Tháp Pháp sư

Chỉ khi cánh cửa đôi của Tháp Pháp sư sập lại sau lưng và Jenna thấy mình đứng trong một tiền sảnh lát vàng rộng mênh mông, thì cô bé mới nhận ra cuộc đời mình đã thay đổi ghê gớm đến chừng nào. Jenna chưa bao giờ thấy, chưa khi nào thấy, hoặc thậm chí mơ thấy một nơi như thế này. Cô bé biết rằng hầu hết những người khác trong Lâu đài cũng chưa bao giờ trông thấy cái gì như thế này. Chính cô bé cũng đã trở nên xa lạ với những thứ mình đã từng bỏ lại sau lưng lúc xa xưa.
Jenna trố nắt dòm sự sang giàu lạ lẫm bao quanh trong lúc đứng ở vòng cung tiền sảnh khổng lồ, lòng hết sức xúc động. Những bức tường vàng lấp lóa, treo hàng hàng lớp lớp những bức tranh vẽ những sinh vật huyền bí, những biểu tượng, và những vùng đất lạ. Không khí ấm áp và thoang thoảng mùi hương trầm. Tiếng ngâm nga thầm lặng, nhẹ nhàng bao trùm khắp nơi, âm thanh của pháp thuật thường nhật vốn giữ cho Tháp Pháp sư hoạt động. Dưới chân Jenna, sàn nhà chuyển động như thể làm bằng cát. Nó được làm từ hàng trăm màu sắc khác nhau, nhảy nhót quanh dôi ủng của cô bé, và nhả ra những từ CHÀO MỪNG CÔNG CHÚA, CHÀO MỪNG. Rồi, khi cô bé đang sững sờ nhìn chăm chăm, những mẫu tự bỗng chuyển thành dòng chữ NHANH LÊN!
Jenna ngước lên nhìn bà Marcia. Bà hơi lảo đảo khi bế tên lính canh và bước lên một chiếc cầu thang xoắn ốc bằng bạc.
“Lẹ lên,” bà Marcia nôn nóng. Jenna chạy ù tới, bước lên bậc thang dưới cùng và định leo tiếp cầu thang.
“Không, cứ đứng đợi ở đó,” bà Marcia giải thích. “Cầu thang sẽ tự làm phần còn lại”.
“Đi,” bà Marcia nói dõng dạc, và trước sự kinh ngạc của Jenna, chiếc cầu thang xoắn ốc bắt đầu quay. Mới đầu nó quay chầm chậm, nhưng rồi lập tức tăng tốc, càng lúc càng nhanh, hướng lên dọc theo tháp cho tới khi họ tới đỉnh. Bà Marcia bước ra khỏi và Jenna theo sau, loạng choạng, vừa kịp trước khi những bậc thang xoay tít tụt xuống trở lại, do có một pháp sư khác ở đâu đó bên duới gọi xuống.
Cánh cửa trước to lớn màu tía của bà Marcia đã bung mở sẵn cho họ, và ngọ lửa trong vỉ lò hấp tấp bùng lên. Một chiếc trường kỷ đã tự kê ở lò sưởi, rồi hai chiếc gối và một tấm mền phóng vèo trên không xuống và đáp xuống gọn ghẽ trên chiếc trường kỷ mà bà Marcia không cần phải nói lấy một lời nào.
Jenna giúp bà Marcia đặt thằng nhỏ lính canh lên trường kỷ. Trông nó thật ghê. Mặt tím bầm và trắng nhách vì lạnh, mắt nhắm nghiền và nó đã run cầm cập không thể kiểm soát nổi.
“Run là dấu hiệu tốt,” bà Marcia nó vẻ mừng rỡ, rồi bật ngón tay đánh tách. “Cởi đồ ướt.”
Bộ đồng phục lính canh ngô nghê bật khỏi người thằng nhỏ và bay nhẹ xuống sàn thành một đống lòe loẹt ướt nhép.
“Rác rưởi,” bà Marcia bảo, và bộ đồng phục kinh hãi tự gom lại và nhỏ nước ròng ròng ra cầu trượt rác, nó tự quăng mình vào đó và biến mất.
Bà Marcia mỉm cười:
“Tống khứ rồi. Giờ mặc đồ khô.”
Một bộ pyjama ấm áp xuất hiện trên người thằng nhỏ và cơn run rẩy của nó bớt dữ dội đi.
“Tốt,” bà Marcia nói. “Chúng ta sẽ ngồi với nó một chút và để cho nó ấm lên. Nó sẽ ổn thôi.”
Jenna lại ngòi xuống một tấm thảm bên lò sưởi, và ngay tức khắc, hai ca sữa nóng bốc khói nghi ngút hiện ra. Bà Marcia ngồi xuống bên cạnh cô bé. Bất chợt, Jenna cảm thấy mắc cỡ. Pháp sư Tối thượng đang ngồi bệt dưới sàn nhà kế bên mình, cứ hệt như Nicko hay làm vậy. Mình nên nói gì đây? Jenna không sao nghĩ ra được cái gì, ngoại trừ việc cảm thấy lạnh, nhưng cô bé quá bối rối đến nỗi không tháo ủng ra.
“Tốt nhất hãy tháo ủng ra,” bà Marcia nhắc. “Chúng ướt sũng kìa.”
Jenna tháo dây cột và lôi ủng ra.
“Coi vớ của cháu kìa. Thật dễ sợ,” bà Marcia chắt lưỡi.
Jenna bỗng đỏ rân mặt. Đôi vớ của cô bé trước kia là của Nicko và trước đó nữa nó thuộc về Edd. Hay là của Erik? Chúng bị mạng chằng chịt và quá rộng đối với cô bé.
Jenna ngọ ngậy những ngón chân bên đống lửa và hong khô bàn chân.
“Cháu muốn vớ mới không?” Bà Marcia hỏi.
Jenna bẽn lẽn gật đầu. Một đôi vớ dày dặn, ấm áp, màu tía hiện ra trên hai bàn chân Jenna.
“Dù sao chũng ta cũng nên giữ đôi cũ lại,” bà Marcia bảo
“Gặt,” bà bảo chúng.
“Gấp.” Đôi vớ làm theo chỉ thị- chúng giũ sạch bụi đát, rớt thành một đống lầy nhầy trên thềm lò sưởi, rồi tự gấp gọn lại và đậu bên lò sưởi ngay sát Jenna. Jenna mỉm cười. Cô bé sung sướng vì bà Marcia đã không gọi món đồ được mạng khéo nhất của Sarah là rác rưởi.
Buổi chiều giữa mùa đông trôi đi, và ánh sáng bắt đầu phai nhat. Thằng nhỏ lính canh cuối cùng đã ngừng run và đang ngủ yên bình. Jenna ngồi co ro bên đống lửa, đang xem một cuốn sách Pháp thuật bằng hình của bà Marcia, thì có một tiếng phang khủng khiếp lên cánh cửa.
“Marcia. Mở cửa. Tôi đây!” Một giọng nói gấp gáp vọng lên từ bên ngoài.
“Ba!” Jenna hét lên.
“Suỵt…” bà Marcia nhắc. “Nhỡ không phải.”
Bà Marcia niệm ngay bùa Trong suốt. Đúng vậy, trước sự tức giận của bà, ở ngoài cánh cửa là Silas và Nicko đang đứng. Nhưng chưa hết. Ngồi sát bên họ, với cái lưỡi thè ra lòng thong và nước dãi nhiểu xuống lông, là con chó sói, cổ có quàng một chiếc khăn quàng hoa chấm.
Bà Marcia không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải để cho họ vào.
“Mở!” Bà Marcia cộc cằn bảo cánh cửa.
“Chào, Jen.” Nicko cười toét.
Cu cậu bước rón rén lên tấm thảm lụa tinh xảo của bà Marcia, theo sát đằng sau là Silas và con sói, cái đuôi vẫy như điên của nó quét bộ sưu tập Bình Thần tiên quý giá của bà Marcia rớt ầm xuống sàn.
“Nicko! Ba!”
Jenna hét lên và quăng mình vào vòng tay của Silas. Cảm giác như mấy tháng rồi cô bé không gặp ông.
“Mẹ đâu rồi? Mẹ không sao chứ?”
“Ổn cả,” Silas đáp. “Mẹ con tới nhà bà lang Galen với các anh rồi. Nicko và ba tới để đưa cho con cái này.” Silas khua khoắng mấy cái túi áo sâu của mình.
“Chờ chút.” Ông nói, “ Nó ở đâu đây thôi.”
“Anh điên rồi sao?” Bà Marcia chất vấn. “Anh nghĩ anh tới tận đây là anh đang làm gì đấy, hả? Đuổi con sói xơ xác đó ra xa ta ngay.”
Con sói đang bận nhỏ dãi xuống đôi giày da trăn của bà Marcia.
“Nó không phải là sói,” Silas bảo bà. “Nó là giống chó săn sói Abyssinian, hậu duệ của giống chó săn sói của các đạo sĩ Maghul. Tên nó là Maximillian. Tuy nhiên nó cho phép cô gọi nó là Maxie cho gọn. Nếu cô tốt với nó,”
“Tố!” bà Marcia líu lưỡi, gần như á khẩu.
“Có lẽ chúng tôi phải ở lại,” Silas vừa tiếp tục nói vừa đổ ào các thứ từ trong một cái túi dết nhỏ, bẩn thỉu ra chiếc bàn cầu cơ bằng gỗ mun và ngọc bích của bà Marcia rồi bới cả lên.
“Giời quá tối rồi không thể đi vào cánh rừng được.”
“Ở lại? Đây?”
“Ba! Nhìn đôi vớ của con nè, ba,” Jenna khoe, ngoắc ngoắc những ngón chân trong không khí.
“Ừmm, dễ thương lắm, cưng,” Silas lầm bầm, vẫn lục lọi các túi quần áo. “Ba đã để nó ở đâu nhỉ? Ba chắc chắn có mang nó theo mà…”
“Anh thích vớ của em không, Nicko?”
“Đỏ bầm quá.” Nicko nhận xét. “Anh tê cóng rồi.”
Jenna dẫn Nicko lại chỗ ngọn lửa. Cô bé chỉ thằng nhỏ lính canh. “Tụi này đang chờ nó tỉnh dậy. Nó bị đông cứng trong tuyết, bà Marcia cứu nó đấy. Bà làm cho nó thở lại”
Nicko huýt sáo, thán phục quán chừng.
“Ê,” cu cậu thốt lên. “Anh đoán là nó tỉnh rồi kìa.
Thằng nhỏ lính canh mở choàng mắt ra và nhìn trao tráo Jenna cùng Nicko. Trông nó khiếp hãi. Jenna xoa cái đầu cạo trọc của nó. Tóc nham nhám và vẫn còn hơi lạnh.
“Bây giờ bạn an toàn rồi,” cô bé trấn an. “Bạn đang ở cùng với tụi này. Tôi là Jenna, còn đây là anh Nicko. Tên bạn là gì?”
“Con Trai 412,” thằng lính canh lầm bầm.
“Con Trai Bốn Một Hai…?’ Jenna lặp lại, dò hỏi. “Nhưng đó là con số. Không ai lấy số làm tên.”
Thằng nhỏ nhìn Jenna thao láo. Rồi nó nhứm mắt lại và định ngủ tiếp.
“Quái dị!” Nicko nói. “Ba nó với anh là ở trong Thiếu sinh quân người ta chỉ có số thôi. Lúc này ngoài kia có hai đứa bọn nó, nhưng ba làm bộ cho chúng tưởng rằng anh với ba là lính bảo hộ. Ba nhớ lại mật khẩu từ nhiều năm trước”.
“Ba giỏi quá, nhưng mà.” Cô bé tư lự. “Em nghĩ ba không phải là ba của em. Và anh không phải là anh của em…”
“Vớ vẩn. Anh với ba là anh và ba của em,” Nicko cấm cẳn. “Không gì thay đổi được điều đó. Công chúa ngốc nghếch à”.
“Ừm, em cũng nghĩ vậy,” Jenna nói.
“Chứ sao,” Nicko xác nhận.
Silas đã nghe lỏm được cuộc trò chuyện của chung.
“Ba luôn luôn là ba của con, và mẹ cũng luôn là mẹ của con. Có điều con còn có một người mẹ đầu tiên nữa.”
“Bà ấy là Nữ hoang phải không ạ?” Jenna hỏi.
“Phải Nữ hoàng. Nữ hoàng của chúng ta. Trước khi có bọn Bảo hộ ở đây.”
Silas lộ vẻ trầm tư và rồi ông chợt rạng rỡ hẳn lên khi nhớ ra cái gì đó, liền lột cái nó len dày xuống. Phải ở trong túi nón của ông. Đương nhiên rồi.
“Thấy rồi!” Silas reo lên chiến thắng. “Quà sinh nhật của cpm. Chúc mừng sinh nhật, cưng yêu.” Ông trao cho Jenna món quà mà cô bé bỏ quên.
Đó là một vật nhỏ nhưng nặng đến ngạc nhiên so với kích thước của nó. Jenna xé lớp giấy gói màu sặc sỡ ra và cầm một cái túi cột dải dút trong tay. Cô bé cẩn thận nới dây dút ra, nín thở vì phấn khích.
“Ồ,” cô bé buột miệng, không nén nổi thất vọng trong giọng nói. “Chỉ là hòn đá cuội. Nhưng, hòn đá đẹp lắm. Cám ơn ba.”
Cô bé lấy hòn đã màu xám, láng trơn ra và đặt nó lên lòng bàn tay mình.
Silas bế Jenna vào lòng.
“Không phải là đá cuội đâu. Nó là đá thạch anh để nuôi chơi đấy,” ông giảng giải. “Con thử cù dưới cắm nó xem.”
Jenna không biết đầu nào là cằm của hòn đá, nhưng cô bé cũng cứ thử cù. Từ từ, hòn đá mở đôi mắt đen bé xíu của nó ra nhìn cô bé., rồi nó duỗi bốn cái cẳng lều khều, đứng lên và bước quanh bàn tay cô bé.
“Ôi, ba, tuyệt quá,” Jenna há hốc miệng.
“Chúng ta nghĩ con sẽ thích nó mà. Ba thỉnh món bùa này từ tiệm Đá Di động đấy. Côi chừng đừng cho nó ăn nhiều quá nhé, không thì nó ì ạch và lười biếng đó. Nó cần đi dạo mỗi ngày nữa.”
“Con gọi nó là Petroc,” Jenna nói. “Petroc Trelawney.”
Petroc Trelawney lộ vẻ hài lòng như một hòn đá có thể hài lòng, trông cũng y chang như nó hồi nãy. Nó thu cẳng chân vào, nhắm mắt và lại ngủ tiếp. Jenna đút nó vào trong túi áo để ủ ấm cho nó.
Trong lúc đó Maxie đang mải mê nhai tờ giấy gói và nhỏ nước dãi xuống cổ Nicko.
“Ê, xích ra, cái thùng dãi! Nắm xuống,” Nicko quát, cố đẩy con Maxie xuống sàn. Nhưng con chó săn sói không chịu nằm xuống. Nó nhìn trừng trừng vào một bức tranh lớn treo trên tường, hình bà Marcia mặc áo thụng Tốt nghiệp Học trò.
Maxie bắt đầu tru khẽ.
Nicko vỗ về Maxie.
“Hình ghê quá, hả?” Nó huýt sáo với con chó, lúc này chợt vẫy đuôi ngại ngần, rồi kêu ăng ẳng khi hồn ma ngài Alther Mella xuất hiện qua khung hình. Maxie chưa bao giờ quen với diện mạo của ngài Alther cả.
Maxie rên ư ử và sục đầu vào dưới đống chăn mềm phủ kín Con Trai 412. Cái mũi ướt lạnh của nó làm thằng nhỏ giật mình thức giấc. Con Trai 412 ngồi phắt dậy ngay lập tức và ngó dáo dác xung quanh như một con thỏ sợ hãi. Nó không thích những gì nó đang nhìn thấy. Thật tình đó là cơn ác mộng tệ hại nhất của nó.
Bất kỳ giây phút nào lúc này Chỉ huy Thiếu sinh quân cũng có thể tìm nó và rồi nó sẽ rơi vào rắc rối thật sự. Giao du với kẻ thù- người ta sẽ gọi như thế khi ai đó nói chuyện với những pháp sư. Và nó ở đây cùng với hai người bọn chúng. VÀ cả một con ma pháp sư già theo như bộ dạng ông ta. Không kể hai đứa nhóc lập dị, một con nhỏ đội cái gì như vương miện trên đầu, còn thằng kia có mắt xanh lá cây rực, lộ tẩy chân tướng pháp sư rõ ràng. Và con chó bẩn thỉu nữa. Họ cũng đã lột mất đồng phục của nó rồi và mặc bộ đồ dân sự cho nó. Nó có thể bị bắn như một tên gián điệp. Con Trai 412 rên rỉ và vùi đầu vào hai bàn tay.
Jenna tiến lại gần và vòng tay ôm quanh người thằng nhỏ.
“Không sao đâu,” cô bé thì thầm. “Bọn mình sẽ chăm sóc bạn”.
Ngài Alther trông có vẻ kích động.
“Cái mụ Linda. Mụ đã báo cho họ biết anh đi đâu rồi dấy. Họ sắp đến đây rồi. Họ phái Ám sát binh tới.”
“Ôi, không,” bà Marcia rên rỉ. “Để tôi ếm bùa khóa mấy cánh cửa chính lại”
“Quá trễ,” ngài Alther thở gấp. “Mụ ta đã vào rồi.”
“Nhưng bằng cách nào?”
“Ai đó đã để cửa mở,” ngài Alther nói.
“Silas, đồ hậu đậu!” bà Marcia quát om.
“Phải,” Silas đi ra cửa. “Thế thì chúng tôi đi đây. Chúng tôi mang Jenna đi cùng. Con bé rõ ràng là không an toàn nếu ở với cô, Marcia à.”
“Cái gì?” Bà Marcia căm phẫn kêu lên the thé. “Cô bé không an toàn ở bất cứ nơi nào, đồ ngu!”
“Đừng gọi tôi là ngu.” Silas lắp bắp, “Tôi cũng thông minh như cô, Marcia . Chỉ vì tôi là Pháp sư Thường.”
“Thôi đi!” Ngài Alther quát. “Đây không phải là lúc cãi nhau. Lạy trời, mụ ta đang lên cầu thang kìa.”
Sửng sốt, tất cả mọi người im bặt và lắng nghe. Thinh lặng hoàn toàn. Quá thinh lặng. Ngoại trừ tiếng rù rì của cầu thang bạc đều đặn quay khi chúng chầm chậm mang theo một hành khách lên đỉnh Tháp Pháp sư, tới đúng cánh cửa màu tía của bà Marcia.
Jenna kinh hãi. Nicko vòng tay ôm lấy cô bé.
“Anh sẽ bảo vệ em, Jen,” chú bé nói. “Em sẽ an toàn ở bên anh.”
Thình lình, Maxie vểnh tai ngược ra sau và tru lên một tiếng rợn óc. Ai nấy dựn tóc gáy.
“Rầm!” Cánh cửa bật mở toang.
In lừng lững trên nền ánh sáng, Ám Sát binh đứng đó. Mặt mụ bợt bạt khi săm soi cảnh tượng trước mặt. Đôi mắt mụ lạnh băng, láo liên sục sạo tìm con mồi của mình. Công chúa. Trong bàn tay phải của mụ lăm lăm một khẩu súng bạc, khẩu súng mà bà Marcia nhìn thấy lần cuối cùng cách đây mười nưm trong phòng Thiết triều.
Mụ Ám Sát binh tiến lên phía trước
“Bọn bay đã bị bắt!” Mụ hét lên đầy đe dọa. “Bọn bay không phải nói gì hết. Bọn bay sẽ bị đưa ra khỏi đây, tới một nới và…”
Con Trai 412 đứng dậy, run lẩy bẩy. Đúng như nó chờ đợi- người ta sẽ đến bắt nó. Chậm rãi, nó bước vể phía mụ Ám Sát binh. Mụ ta nhìn nó ráo hoảnh.
“Tránh ra, nhóc,” mụ Ám Sát binh nạt nộ. Mụ thẳng tay tang mạnh vào thằng Con Trai 412 và xô nó ngã oạch xuống sàn.
“Đừng!” Jenna kêu lên. Cô bé chạy tới Con Trai 412, đang nằm sóng xoài dưới đất. Khi cô bé quỳ xuống xem thằng nhỏ có bị thương hay không, mụ Ám Sát binh tóm lấy cô bé.
Jenna giãy giụa.
“Buông ra!” Cô bé thét lên.
“Èm, Nữ hoàng,” mụ Ám Sát binh nạt. “Có người muốn gặp Người. Nhưng ông ta muốn thấy Người… chết.”
Chát!
Một luồng sét phóng ra từ bàn tay vươn ra của bà Marcia. Nó quật mụ Ám Sát binh ngã vật xuống và buông rời Jenna ra.
“Bao quanh và Bảo vệ!” Bà Marcia hét lên. Một màng ánh sáng trắng xóa phụt lên từ dưới sàn nhà, tựa như một thanh gươm sáng, và bao quanh lấy họ, ngăn cách họ khỏi mụ Ám Sát binh đang bất tỉnh.
Sau đó bà Marcia mở khung cửa sập che cầu trượt rác ra.
“Đây là lối thoát duy nhất,” bà kêu lên. “Silas, anh đi trước. Cố dùng bùa Quét dọn khi đi xuống.z’
“Cái gì?”
“Anh nghe tôi nói rồi đấy. Vào đi!”
Bà Marcia quát và đẩy Silas một cú thật mạnh qua cửa sập. Silas lảo đảo rơi vào cầu trượt rác, và rồi, hét một tiếng, ông biến mất.
Jenna lôi thằng Con Trai 412 đứng dậy.
“Đi nào,” cô bé nói và đẩy dúi đầu thằng nhỏ vào cầu trượt rác. Xong, cô bé nhảy vào, theo sát là Nicko, kế tiếp là bà Marcia, và một con cho săn sói cực kỳ phấn khích.

Chương 8 : Cầu trượt rác

Khi Jenna quăng mình vào cầu trượt rác, cô bé quá sợ Asm Sát Binh đến nỗi không còn thời gian để mà sợ cái cầu trượt nữa. Nhưng đến khi lộn nhào không sao dừng được xuống cái lỗ đen ngòm rồi, cô bé mới cảm thấy nỗi sợ khủng khiếp choán hết lòng mình.
Bên trong cầu trượt rác lạnh và trơn như băng. Cầu được xây bằng đá phiến đen bóng, do các bậc thầy Thợ xây – những người xây dựng Tháp Pháp sư từ mấy trăm năm trước – cắt và ráp mà không để lộ một mối nối. Cú rơi thật dốc, quá dốc, đến nỗi Jenna không thể kiểm soát nổi cách mình rơi nhue thế nào, thế nên cô bé cứ thế mà nhào lộn, lăn lông lốc từ bên này máng sang bên kia máng.
Nhưng điều tệ hại nhất là bóng tối.
Bóng tối đen đặc, sâu thẳm, không thể xuyên thủng. Nó úp chụp xuống Jenna từ mọi phía ; và mặc dù cô bé đã mở căng mắt, ráng sức để thấy được một cái gì đó, cái gì cũng được, nhưng tuyệt vẫn không có một thứ gì đáp lại. Jenna nghĩ bụng, hay là mình mù rồi.
Nhưng cô bé vẫn có thể nghe được. Và ngay đằng sau lưng, sấm sập lao tới, Jenna nghe tiếng lông chó lướt vùn vụt.
Chú chó săn sói Maxie đang khoái chí. Nó thích trò chơi này quá đi mất. Maxie đang ngạc nhiên khi nó nhảy vào cầu trượt rác mà lại không thấy Silas đứng đó ôm sẵn trái banh. Nó lại còn ngạc nhiên hơn nữa khi thấy các móng vuốt của mình hình như không hoạt động được nữa, và nó cuống quít quơ quào cố tìm hiểu coi tại sao. Rồi nó va mũi ào phía sau gáy của người phụ nữ đáng sợ, và nó ráng liếm một miếng gì đó ngon mê ly ở trên tóc bà, nhưng đứng lúc đó bà đẩy cho nó một cú thô bạo đến nỗi nó té ngửa.
Và giờ thì Maxie sung sướng vô ngần. Mũi lao xuống trước, móng vuốt quặp thật chắc, nó trở thành một cuộc lông trôi phăng phăng, và nó vượt qua tất cả mọi người. Vượt qua Nicko, cậu bé chộp lấy đuôi nó nhưng rồi lại buông ra. Qua Jenna, thét vang vào tai nó. Qua Con Trai 412, cuộn tròn xoe như một trái banh. Và rồi qua chủ nhân của nó, Silas. Maxie cảm thấy bất an khi vượt qua Silas, bởi vì Silas là Chóp bu, và Maxie Không-được-phép-đi-trước. Nhưng con chó săn sói không còn lựa chọn nào khác – nó vụt qua Silas trong một trận mưa rào toàn những món hầm lạnh ngắt cùng vỏ cà rốt và cứ thế nó tiếp tục lao xuống.
Cầu trượt rác uốn lượn quanh Tháp Pháp sư như một mớ hỗn loạn khổng lồ được chôn sâu vào trong một bức tường dày. Cứ giữa mỗi tầng tháp nó lại đổ dốc xuống, mang theo bên mình không chỉ Maxie, Silas, Con Trai 412, Jenna, Nicko, và bà Marcia, mà còn tất cả những gì còn lại từ bữa trưa của tất cả các Pháp sư, vừa bị tống vào cầu trượt rác chiều hôm đó. Tháp Pháp sư cao hai mươi mốt tầng. Hai tầng trên cùng thuộc về Pháp sư Tối thượng, và những tầng bên dưới, mỗi tầng có hai căn hộ của hai pháp sư. Như thế là rất nhiều đồ ăn trưa. Đó là thiên đàng của con chó săn sói, và trên đường lao xuống Tháp Pháp sư, Maxie đã xơi những món đủ cho nó cầm cự đến hết cả ngày hôm này.
Cuối cùng, sau một hồi lâu tưởng như hàng nhiều tiếng liền, nhưng thật ra chỉ là hai phút mười lăm giây, Jenna cảm thấy mình khựng lại theo chiều thẳng đứng, và nhịp rơi của cô bé chậm lại đến mức có thể chịu đựng được. Cô bé không biết rằng bây giờ mình đã rời Tháp Pháp sư và đang di chuyển bên dưới lòng đất, từ chân tháp tiến ra ngoài và tiến về khu tầng hầm của sân Bảo hộ. Trong cầu trượt rác vẫn tối đen như mực mà lạnh buốc, và Jenna cảm thấy cô đơn.

[SÁNG TÁC VĂN HỌC-KST.VN-QUÀ TẶNG HẤP DẪN]

Report




KSTS


Cash
1892 K$D
Posts
720

Space
Add
Poke
PM
7#
kuisuira Post on 1-10-2010 10:03:42 |View kuisuira's posts Cô bé căng tai ra nghe ngóng xem có bất kì âm thanh nào từ những người khác hay không, nhưng tất cả mọi người đều biết rằng giữ im lặng là quan trọng biết chừng nàovà không ai dám gọi to. Jenna cứ ngỡ rằng mình sẽ dò được tiếng áo chùng của bà Marcia sột soạt quét đằng sau, nhưng đến khi Maxic vượt qua rồi cô bae bỗng nhận ra chẳng có dấu hiệu nào là còn ai bên cạnh cả. Ý nghĩ rằng mình đã bị kẹt lại có một mình trong bóng tối vĩnh viễn bắt đầu xâm chiếm lấy Jenna và một đợt sóng kinh hãi nữa sắp sửa dấy lên. Nhưng ngay khi Jenna nghĩ mình sẽ thét ầm lên thì một khe ánh sáng rọi xuống từ một nhà bếp từ tít trên cao, và cô bé thoáng thấy Con Trai 412 lăn như trái banh ở phía trước mình không xa lắm.Tinh thần của Jenna phấn chấn hẳn lên khi thấy thằng nhỏ,và cô bé chợt thấy tội nghiệp cho thằng lính canh còi cọc, lạnh run trong bộ đồ ngủ.
Con Trai thì lại chẳng thấy tội nghiệp cho bất cứ ai, lại càng ít tội nghiệp cho chính nó. Khi đứa con gái điên với cái vòng vàng ở trên đầu đẩy nó xuống vực thẳm ,nó đã tự động cuộn tròn thân người lại và trượt suốt chặng đường xuống Tháp pháp sư, va đập vào vách bên này rồi lại bên kia như một hòn bi lăn trong ống nước. Con Trai 412 cảm thấy mình bầm dập và biến dạng, nhưng vẫn không khiếp đảm hơn lúc này khi nó tỉnh dậy thấy mình ở chung phòng với hai pháp sư, mộy thằng pháp sư nhỏ và một con ma pháp sư. Khi co trai 412 trôi chậm lại vì cầu trượt rác bớt dốc đầu óc nó bắt đầu hoạt động trở lại.Những ý nghĩ ít ỏi mà nó cố lắp ráp lại với nhau khiến nó đi dến kết luận rằng đây chắc chắn là một bài kiểm tra. Thiếu sinh quân lúc nào cũng đầy ắp những bài kiểm tra, Những bài kiểm tra hãi hùng luôn luôn dựng bọn lính dậy vào nửa đêm , ngay khi chúng vừa thiếp đi và chiếc giường hẹp rỉ ,và lạnh thổn vừ trở nên ấm áp thoải mái. Nhưng lần này là mộy bài kiểm tra lớn. Đâyhẳn là một trong những loại bài kiểm tra không-làm-là-chết. Con Trai 412 nghién chặt răng lại ,nó không chắc, nhưng ngay lúc này nó có cảm giác kinh hoàng như đã đến phàn Chết của bài kiểm tra.Và cái bài này có là gì đi chăng nữa, thì lúc này nó cũng chẳng Làm gì được. Con Trai 412 nhắm chặt mắt lại và tiếp tục lăn long lóc.
Cầu trượt rác đưa họ trôi xuống.Chiếc cầu trượt quẹo trái rồi luồn ben dưới khu hành chính Hội Đồng Bảo hộ,quẹo phải vào Văn Phòng quân đội, roìi lại đi xuyên qua những bức tường của nhà bếp ngầm dưới đất, nơi phục vụ cho Cung điện. đến đây, mọi thứ bỗng trở len cực kì hỗn độn. Các bà bếp vãn còn đang bận rộn chà rửa dọn dẹp sau bữa đại tiệc buổi trưa của Bảo Hộ toàn quyền, và những cửa sập trong nhà bếp, cách không xa trên đầu những khách du hành trong cầu trượt rác là mấy,cứ thường xuyên mở ra một cách đáng sợ và trút như mưa xuống đầu họ thức ăn thưa hổ lốn của bữa tiệc.Ngay cả cho Maxie,cho đến lúc đó đã đớp hớt cỡ,cũng cảm thấy khó chịu,nhất là sau khi nguyên một chiếc bánh nướng gạo cứng đập ngay vào mũi nó. Cô hầu bếp trẻ nhất,Người vừa thảy chiếc bánh nướng,thoáng nhìn thấy Maxie và sau đó bị ác mộng về chó sói trong cầu trượt rác suốt mấy tuần liền.
Đối với bà Marcia, đó cũng là một cơn ác mộng. Bà quấn chặt người tấm áo chùnglụa màu tía bị nước sốt, sữa trứng trộn lông chó bắn tung tóe, né một cơn mưa bắp cải và cố tập dượt bùa Hong-sạch-trong- một-giây để sử dụng ngay khi ra khỏi vầu trượt rác.
Cuối cùng cầu trượt rác đưa họ ra khỏi nhà bếp, và mọi thứ có vẻ hơi hơi sạch hơn. Jenna cho phép mình thả lỏng một chút, nhưng thình lình, hơi thở của cô bé bị vặt đi mất khi cầu trượt rác bỗng tụt hẫng xuống dưới những bức tường lâu đài,tuột về đích đến cuối cùng của nó tại bãi rác bờ sông.
Silas là người phục hồi đầu tiên sau cú rơi và đoán mọi người sắp đi đến cuối hành trình rồi. Ông chong mắt ngó vào bóng tối để cố nhìn cho ra ánh sáng cuối đường hầm,nhưng chẳng thấy gì. Mặc dù biết lúc này mặt trời đã lặn, ông vẫn hi vọng mặt trăng tròn sẽ lọt chút ánh sáng vào cầu trượt. Và rồi,hết sức kinh ngạc, ông trượt dài vaf dừng phắt lại, đập phải một khối gì đó. Một vật gì mềm mềm và nhớt nhớt, nhầy nhụa, bốc mùi gớm ghiếc. Đó là Maxie.
Silas thắc mắc tại sao Maxie lại bít lối cầu trượt rác, trong khi Con Trai 412, Jenna, Nicko và bà Marcia lần lượt bắn vào ông liên tiép như đạn đại bác. Silas nhận ra không chỉ có Maxie mới nhớt nhớt và nhầy nhụa, bốc mùi gớm ghiếc - bọn họ thảy đều thế cả.
" Ba?" Giọng khiếp đảm của Jenna vang lên trong màn đen. "Phải ba đó không, ba?"
" Phải ,cưng," Silas thì thầm.
"Chúng ta đang ở đâu vậy, ba?" Nicko hỏi khàn đặc.Nó ghét cầu trượt rác quá đi mất... Phải cho đến lúc lao vào đó, nó mới biết rằng mình kinh hãi không gian tù túng đến chừng nào; một cách khám phá mới gớm guốc làm sao;nó nghĩ. Nãy giờ nicko cố chống chọi với nỗi sợ hãi bằng cách tự nhủ ít ra thì mình cũng đang chuyển động và rồi mình sẽ ra khỏi nơi này ngay thôi. Nhưng bây giờ họ đã dừng lại. Và họ không ra ngoài được.
Họ bị kẹt
Bị sa bẫy rồi.
Nicko cố ngồi lên, nhưng đầu nó đụng phải phiến đá lạnh ngắt bên trên. Nó vươn hai cánh tay ra, nhưng hai cánh tay chưa duỗi thẳng được thì đã va trúng vách thành trơn tuột, lạnh băng của cầu trượt rác. Nicko cảm thấy hơi thở mình đang càng lúc càng dồn dập. Nó nghĩ nó sẽ phát điên lên mất nếu họ không ra được khỏi đó thật nhanh.
" Sao lại dừng lại như thế này?" Bà Marcia rít lên.
" Có vật cản," Silas thì thầm, ông vừa mới cảm thấy mình vừa bước qua khỏi Maxie và đi đến kết luận rằng họ vừa dừng lại trước một đống rác khổng lồ bít kín cầu trượt rác.
"Khỉ thật," bà Marcia lầm bầm.
" Ba. Con muốn ra ngoài, ba," Nicko thều thào.
"Nicko?" Silas khẽ nói. "Con không sao chứ?"
"Có..."
" Đó là cửa chuột!" Bà Marcia reo lên chiến thắng. " Có một tấm lưới sắt để ngăn không cho chuột chạy khỏi cầu trượt rác. người ta dựng nó lên sau khi Endor tìm thấy một con chuột trong bình nước nóng của cô ấy. Mở ra đi, Silas."
"Tôi không mở được. Rác ngập khắp lối."
"Nếu anh niệm Dọn sạch như tôi yêu cầu thì cũng không được sao?"
"Marcia" Silas ré lên "Khi đang nghĩ là mình sắp chết thì có ai lại cho rằng một mẩu công việc nội trợ là ưu tiên số một không hả?"
" Ba" Nicko kêu lên một cách tuyệt vọng.
" Để tôi làm vậy," bà Marcia nạt. Bà bật ngón tay và lầm bầm cái gì đó trong miệng. Một tiếng xoảng giật cục khi cửa chuột bung ra và một tiếng phụt khi đống rác bị nghẽn tuôn ào ra khỏi cầu trượt rác và đáp phịch xuống bãi rác.
Họ đã tự do.
Mặt trăng tròn vành vạnh giờ đã nhô lên trên sông, chiếu ánh sáng trong vắt vào khoảng đen ngòm của cầu trượt rác và chỉ lối cho sáu lữ khách mệt mỏi, bầm dập tới nơi mà tất cả họ đều khao khát tới.
Bãi rác Bờ sông Thơ mộng.

Chương 9 : Quán ăn nhỏ của Sally Mullin

Đó là một tối mùa đông lặng lã như thường lệ trong cái quán nhỏ của Sally Mullin. Tiếng chuyện trò đều đều rù rù lởn vởn khắp không gian của quán, khách quyen và khách vãng lai ghé nhau ngồi bên những chiếc bàn gỗ rộng quây quanh một cái lò sưởi nhỏ. Nãy giờ Sally tất bật chạy đi chạy lại giữa các bàn, góp vài câu bông đùa, mang thêm mấy lát bánh lúa mạch mới nướng và châm thêm dầu cho mấy ngọn đèn; chúng đã thắp sáng liên tục trong suốt buổi chiều mùa đông âm u. Giờ đây bà đang đứng sau quầy, tỉ mẩn đong năm phần bia Springo đặc biệt cho những tay lái buôn phương bắc vừa mới đến.
Liếc nhìn đám lái buôn, bà ngạc nhiên nhận thấy vẻ mặt vốn ai cũng biết là rầu rĩ, cam chịu của họ đã được thay thế bằng những nụ cười toe toét. Sally mỉm cười. Bà tự hào về việc điều hành cái quán nhỏ vui vẻ này, và nếu bà có thể khiến cho năm tay lái buôn khắc khổ kia cười ha hả, thậm chí khi chưa uống đến vại bia Springo đặc biệt đầu tiên,thì tức là bà đang làm điều gì đó đúng đắn.
Bà Sally mang bia ra bàn của đám lái buôn ngồi gần cửa sổ và điệu nghệ đặt xuống trước mặt họ mà không để sánh ra một giọt nào. Nhưng các lái buôn này không lưu tâm đến món bia, bởi vì họ đang bận lấy ống tay áo bẩn thỉu của mình chà lên cửa sổ đầy hơi nước và săm soi nhìn ra ngoài trời tối. Một người trong số họ vừa phát hiện ra điều gì đó, và tất cả bọn họ ồ lên cười hô hố khàn khàn.
Tiếng cười lan truyền ra khắp quán. Những khách hàng khác bắt đầu lao đến cửa sổ và ghé mắt nhòm ra, cho đến khi không bao lâu sau một vòng tròn khchs quyen của quán đã xô đẩy nhau để tranh giành một chỗ ở gần khung cửa sổ dài chạy dọc theo phía sau quán.
Bà Sally Mullin ghé mắt nhìn xem cái gì gây ra trò hớn hở thế kia.
Quai hàm của bà trễ xệ xuống.
Dưới ánh trăng tỏ, Pháp sư Tối thượng, Quý bà Marcia Overstrand, bị phủ kín rác và đang nhảy choi choi như một bà điên trên đỉnh của bãi rác thành phố.
Không, Sally nghĩ, không thể như thế được.
Bà lại ghé mắt nhìn qua khung cửa sổ cáu bẩn lần nữa. Bà không sao tin nổi những gì mình trông thấy. Quả đúng là Quý bà Marcia cùng với ba đứa trẻ- ba đứa trẻ ?Tất cả mọi người đều biết rằng Quý bà Marcia không thể chịu nổi con nít. Lại còn có cả một con sói và ai đó trông quen quen. Chà, ai vậy?
Anh chồng Không-được-chút-nào của Sarah, Silas Heap, thằng cha Silas Để- mai- tôi- làm. Đúng anh ta chứ còn ai.
Silas Heap đang làm cái quái gì với Marcia Overstrand thế kia? Lại còn ba đứa trẻ nữa? Trên đống rác nữa?Liệu Sarah có biết chuyện này không?
Ồ, cô ta sẽ biết ngay thôi.
Là bạn thân của Sarah Heap, Sally cảm thấy có bổn phận phải kiểm tra xem chuyện này là thế nào. Vì vậy, bà bảo thằng bé rửa chén ngó chừng quán còn bà thì chạy ra ngoài, dưới ánh trăng.
Bà Sally dậm huỳnh huỵch xuống lối đi bằng gỗ của cái cầu phao quán ăn và chạy xuyên qua tuyết, hướng lên đồi, về phía bãi rác. Trong lúc chạy, tâm trí bà đi đến một kết luận không thể nào chối cãi được.
Silas Heap đang trốn chạy cùng với Marcia Overstrand.
Kể cũng có lý. Sarah vốn hay phàn nàn về việc Silas bị bà Marcia ám ảnh như thế nào. Kể từ khi anh bỏ vị trí học trò của ngài Alther Mella và bị Marcia thay thế, Silas luôn dõi theo sự tiến bộ thần kì của Marcia với vẻ vừa kinh sợ vừa phấn khích, luôn tưởng tượng rằng điều đó đáng lí ra phải là anh ta. Và kể từ khi Marcia trở thành Pháp sư tối thượng cách đây mười năm, thì Silas lại càng ngày càng tệ.
Hoàn toàn bị ám nahr vì những gì Marcia đang làm, đó là những gì Sarah đã nói.
Nhưng dĩ nhiên, bà Sally đăm chiêu khi đã tới được chân đống rác khổng lồ và đang khó nhọc lò dò leo lên, Sarah cũng không hoàn toàn ngây thơ. Bất cứ ai cũng có thể thấy rằng đứa con gái nhỏ không phải là con của Silas. Con bé trông khác hẳn mấy đứa kia. Và có lần Sally đã cố ý gợi chuyện về cha của Jenna, thì Sarah liền nhanh chóng đổi đề tài. Ồ, đúng rồi, có cái gì đó đang diễn ra trong nhà Heap suốt bao năm nay. Nhưng điều đó cũng không thể biện minh cho những gì Silas hiện đang làm.
Chẳng hề có lý do nào cả, bà Sally vừa nghĩ vừa lảo đảo tiến lên đỉnh bãi rác.
Những thân hình lôi thôi lếch thếch bắt đầu đi xuống và đang tiến về hướng Sally. Bà giơ cả hai cánh tay vẫy họ, nhưng xem ra họ không để ý đến bà. Hình như họ đang mải vướng bận gì đó và hơi loạng choạng như thể họ đang bị chóng mặt. Giờ đây, khi họ đã ở gần hơn, Sally có thể thấy là mình đã nhận đúng bộ dạng họ.
" Silas Heap!" Bà Sally gọi một cách giận dữ.
Năm thân hình giật thót mình và trố mắt nhìn Sally.
"Suỵt!" Bốn giọng nói thì thầm hết cỡ.
" Không suỵt gì hết!" Bà Sally tuyên bố. "Anh nghĩ là anh đang làm gì thế hả, Silas Heap?Bỏ vợ đi với...mụ hư đốn này." Bà Sally vẩy vẩy ngón tay trỏ vào bà Marcia đầy vẻ phản đối.
"Hư đốn?" Bà Marcia thảng thốt.
"Lại còn dắt díu theo bọn trẻ tội nghiệp," Sally bảo Silas, "làm sao anh lại dám thế chứ?"
Silas lội qua đống rác tới chỗ Sally.
" Chị đang nói gì đấy?" Silas giật giọng."Chị làm ơn im giùm cho!"
" Suỵt!" Ba giọng cất lên sau lưng ông,
Cuối cùng bà Sally dịu giọng:
" Đừng làm thế, Silas," bà thì thầm khản đặc " Đừng bỏ người vợ tốt nết và gia đình. Đừng thế mà."
Silas ngẩn người ra.
"Tôi có bỏ đâu," ông nói. "Ai bảo chị thế?"
"Anh không bỏ à?"
"Không!"
"Suụyytt!"
***

Phải mất gần hết chặng đường dài lập bập đi xuống bãi rác để giải thích cho Sally biết chuyện gì đã xảy ra.Mắt bà mở lớn, miệng bà há hốc khi Silas nói cho bà nghe những gì ông cần phải nói, cốt để lôi kéo bà về phe bọn họ - tóm lại là nói khá nhiều thứ. Silas nhận thấy họ không chỉ cần sự im lặng của Sally mà còn cần sự giúp đỡ của bà nữa. Nhưng bà Marcia không chắc như thế lắm. Mullin Sally hoàn toàn không phải là người đầu tiên mà Marcia sẽ chọn để nhờ cậy. Cho nên bà quyết định xen vào và ra tay.
" Đúng," bà nói đầy quyền uy khi họ xuống tới mặt đất cứng ở chân bãi rác. "Tôi nghĩ từ giờ trở đi, vào bất cứ phút nào, chúng ta cũng có thể gặp Thợ Săn và đám Truy sát của hắn được phái đuổi theo chúng ta"
Một thoáng sợ hãi vụt qua gương mặt Silas. Ông đã nghe nói về Thợ Săn.
Bà Marcia rất thực tế và điềm tĩnh.
“ Tôi đã bít rác trở lại cầu trượt và đã ếm Hàn và Khoá nhanh lên cửa chuột,” bà nói. “Cho nên nếu may mắn thì hắn sẽ nghĩ là chúng ta vẫn còn bị kẹt ở trong đó.”
Nicko rùng mình về ý nghĩ đó.
“ Nhưng điều đó không làm chậm bước hắn được lâu đâu,” bà Marcia tiếp. “ Và hắn sẽ lùng sục… rồi tra hỏi.” Bà Marcia nhìn bà Sally như thể muốn nói, “Và bà chính là người mà hắn sẽ tra hỏi.”
Tất cả mọi người rơi vào im lặng.
Bà Sally đáp trả ánh nhìn của bà Marcia một cách gan góc. Bà biết mình đang gánh vác nhiệm vụ gì. Bà biết như thế là sẽ rắc rối lắm đây, nhưng Sally là một người bạn trung thành.
Bà sẽ ra tay.
“Được,” bà Sally nói mạnh mẽ. “ Tôi sẽ cần phải đưa tất cả quý vị đi xa khỏi bọn yêu tinh đó , đúng không?”
Bà Sally dẫn họ tới khu buồng ngủ ở đằng sau quán, nơi nhiều lữ khách mệt nhoài vẫn thường tìm được cho mình một chiếc giường ấm áp để ngủqua đêm, và cả quần áo sạch nữa, nếu họ cần. Giờ này, khu buồng ngủ trống vắng. Bà Sally chỉ cho mọi người chỗ để quần áo và bảo họ cần lấy bao nhiêu thì lấy. Đó là một đêm dài, lạnh giá. Bà xăng xái đổ một xô nước nóng đầy để khách có thể rửa bớt những thứ gớm ghiếc từ cầu trượt rác và sau đó quẩy quả đi ra, bà hẹn:
“ Mười phút sau tôi sẽ gặp mọi người ở bến sông. Mấy người có thể lấy thuyền của tôi.”
Jenna và Nicko quá sung sướng được trút bỏ bộ đồ hôi hám, nhưng Con Trai 412 khước từ thay bất cứ đồ gì . Nó đã trải qua đủ những biến động cho ngày hôm nay rồi, và nó quyết định là sẽ cứ mặc nguyên những gì nó đang mặc, cho dù đó chỉ là một bộ pịâm ướt sũng và bẩn kinh hồn.
Cuối cùng bà Marcia buộc phải dùng bùa Tẩy sạch cho nó, tiếp theo là bùa Thay đồ để tròng tăhngf nhỏ vào cái áo len chiu đầu dày của ngư dân, cái quần rồi cái áo khoác da cừu, cộng thêm cái nón ôm sát đầu maùi đỏ rực mà Silas tìm được cho nó.
Bà Marcia bực mình vì phải dùng đến bùa chú cho trang phục của Con Trai 412. Bà muốn dành sức lực để sau còn dùng đến, bởi vì bà có cảm giác khó chịu rằng bà sẽ cần phải vận hết sức để bảo vệ an toàn cho tất cả mọi người. Dĩ nhiên, bà cũng đã xài một ít năng lượng để niệm Hong- Khô- Trong- Một- Giây cho bản thân, nhưng vì tình trạng kinh tởm của tấm áo chùng nên hoá ra bà pahỉ xài đến Hong- Khô- Trong- Một- Phút mà vẫn chưa gột sạch được những vết nước sốt. Theo quan điểm của bà Marcia, áo chùng của Pháp sư Tối thượng không chỉ là một chiêca áo khoác, nó còn là nhạc cụ hoà âm tinh tế với pháp thuật và bắt buộc phải được đối xử một cách tôn kính.
Mười phút sau, tất cả bọn họ đã tập trung ở bến sông. Bà Sally cùng chiếc thuyền buồm đang đợi họ. Nicko ngó chiếc thuyền nhỏ màu xanh lá cây với vẻ hài lòng. Nó vốn yêu tàu thuyền. Thật ra, không gì khién Nicko yêu thích hơn là dong thuyền trên mặt nước mênh mông, và chiếc thuyền này có vẻ tốt đây. Nó rộng và chắc chắn, ngập phần lớn dưới nước và có một đôi buồm màu đỏ. Nó có một cái tên khá đẹp: Muriel. Nicko thích cái tên đó.
Bà Marcia nhìn chiếc thuyền vẻ nghi ngờ:
“ Làm sao nó chạy được?” Bà hỏi Sally.
Nicko chen vào:
“ Buồm. nó chạy bằng buồm.”
“ Ai lái buồm?” Bà Marcia hỏi, khá bối rối.
Nicko kiên nhẫn:
“ Cái thuyền”
Bà Sally nhấp nhỏm.
“ Mấy người xuống mau cho,” bà giục, liếc nhìn trở lại bãi rác. “ Tôi đã để mái chèo vào rồi, phòng trường hợp mấy người cần dung. Và một ít đồ ăn. Đây này. Tôi sẽ tháo dây thừng và giữ chặt lấy nó trong khi nấy người lên thuyền.”
Jenna lụi hụi bước vào trước, túm chặt lấy cánh tay Con Trai 412 kéo nó đi cùng. Thằng nhỏ một chút rồi cùng chui vào thuyền. Con Trai 412 thấm mệt rồi.
Nicko nhảy vào kế tiếp, rồi Silas đẩy bà Marcia đang hơi lần chần ra khỏi bến, ấn vào thuyền. Bà loạng choạng ngồi xuống cạnh bánh lái, khịt khịt mũi.
“ Mùi gì kinh tởm vậy?”Bà làu bàu.
“Cá” Nicko đáp, tự hỏi không biết bà Marcia có biết dong thuyền không.
Silas nhảy vào cùng với Maxie và chiếc Muriel hơi chìm thấp xuống nước một chút.
“ Giờ để tôi đẩy mấy người nào,” bà Sally nói vẻ lo lắng.
Bà quẳng dây thừng cho Nicko, nó khéo léo chụp lấy và xếp gọn ghẽ ở đằng mũi thuyền.
Bà Marcia vội vồ lấy bánh lái, những lá buồm bay phần phật hoang dại, chiếc Muriel cáu kỉnh bẻ ngoặt sang bên trái.
“ Đưa cháu cầm lái cho.” Nicko đề nghị.
“ cầm cái gì? Ồ cái này điều khiển thuyền à? Tốt lắm, Nicko. Ta không muốn tự làm mệt mình.”
Bà Marcia quấn áo chùng quanh người, và với vẻ trang trọng, uy nghiêm hết sức có thể góp lại đựơc, bà bước lặng lẽ một cách sợ sệt tới bên mạn thuyền.
Bà Marcia không vui. Trước giờ bà chưa bao giờ ngồi trên mộy cái thuyền cả, và bà định bụng từ nay sẽ không bao giờ lên môtk chiếc thuyền nào nữa nếu bà có thể tránh được. Trước tiên là không có ghế. Không có thảm.Không có gối đệm và thậm chí không có mái. Bên ngoài thuyền không những đã nhiều nước, mà bên trong thuyền lại cũng quá nhiều nước. Hay là nó sắp chìm? Còn cái mùi thì không thể tin nổi.
Con Maxie tỏ ra kích động vô cùng. Nó đã xoay xở bám theo được sát gót chân bà Marcia và đồng thời vẫy cái đuôi vào mặt bà.
“ Cút đi, con chó điên,” Silas mắng. đẩy Maxie lên mũi thuyền, chỗ nó có thể hếch cái mũi dài ra gió và hít hà hết tất cả các thứ mùi của làn nước. Xong, Silas ngồi ép mình vào ben cạnh bà Marcia, như thế càng bất tiện hơn cho bà, trong khi Jenna và Con Trai 412 chên chúc ở mạn thuyền phía đối diện.
Nicko hớn hở đứng ở mũi thuyền, cầm lấy bánh lái, và đĩnh đạc dong buồm hướng ra dòng sông mênh mang.
“ Chung ta đi đâ đây?” Nó hỏi.
Bà Marcia, mải bận tâm với tình trạng đột nhiên ở ngay cạnh một lượng nước quá lớn như thế, đã không trả lời.
“Dì Zelda” Silas đáp, ông đã bàn bạc với Sarah vào sáng hôm ấy, sau khi Jenna đi khỏi. “ Chúng ta sẽ đến sống với dì Zelda”
Gió đón lấy buồm của chiếc Muriel và chiếc thuyền tăng tốc hướng về phía dòng nước chảy xiết ở giữa sông. Bà Marcia nhắm mắt lại, cảm thấy choáng váng. Bà tự hỏi liệu có phải chiếc thuyền cố ý chòng chành khá nhiêu như thế hay không.
“ Người giữ Đầm Cỏ Thô phải không?” Bà Marcia hỏi một cách yếu ớt.
“ Phải” Silas đáp. “Ở đó chúng ta sẽ an toàn. Bà ấy đã yểm bùa ngôi nhà tranh của bà ấy một cách vĩnh viễn rồi, sau cái vụ tấn công của lũ Giun nhép Bãi lún mùa đông nănm ngoái. Sẽ không ai tìm ra nó đâu.”
“ Tốt” bà Marcia nói. “ Chúng ta sẽ tới dì Zelda”
Silas tỏ vẻ ngạc nhiên. Bà Marcia thật sự đồng ý với ông, khônh tranh cãi gì hết. Nhưng rồi ông tự mỉm cười, bây giờ tất cả bọn họ đã ở trên cùng một con thuyền rồi còn gì.

Và thế là chiếc thuyền nhỏ màu xanh lá cây biến hút vào màn đêm, bỏ lại dáng hình xa xăm của bà Sally ở trên bờ, vẫy tay rối rít. Khi không còn nhìn thấy chiếc Muriel nữa, bà Sally đứng trên bến sông và lắng nghe tiếng nước vỗ vào những phiến đá lạnh. Thình lình, bà cảm thấy cô độc quá chừng. bà quay lại và bắt đầu bước trở về dọc theo bờ sông phủ tuyết; ánh đèn vàng hắt ra từ những cửa sổ quán ăn nhỏ của bà cách đó không xa,thắp sáng lối đi. Một vài gương mặt khách ngó chăm chăm ra màn đêm lúc Sally vội vã quay trở lại với bầu không khí ấm áp và chuyện trò rôm rả của quán, nhưng dường như họ không nhận thấy dáng hình nhỏ thó của bà dẫm lên tuyết và rẽ vào lối đi trên cầu phao.
Khi Sally đẩy cửa quán trọ và lỉnh vào không gian huyên náo ấm áp, những khách hàng quen thuộc nhận thấy bà không được bình thường. Và họ đã đúng, quả là bất thường đối với Sally khi giờ đây bà chỉ còn có một ý nghĩ ở trong đầu.
Còn bao lâu nữa thì Thợ Săn ập tới?

[SÁNG TÁC VĂN HỌC-KST.VN-QUÀ TẶNG HẤP DẪN]

Report




KSTS


Cash
1892 K$D
Posts
720

Space
Add
Poke
PM
8#
kuisuira Post on 1-10-2010 10:04:58 |View kuisuira's posts Chương 10 : Thợ săn

Mất chính xác tám phút hai mươi hai giây cho Thợ Săn và đội Truy sát của hắn tới được Bãi rác Thơ mộng Bờ sông, sau khi bà Sally đã vẫy chào chiếc Muriel rời bến. Bà đã phải sống từng giây trong năm trăm giây ấy với nỗi sợ hãi quặn sâu trong bao tử.
Mình vừa mới làm gì vậy?
Sally không nói gì cả khi bà trở lại quán trọ, nhưng có cái gì đó trong hành vi của bà khiến cho hầu hết khách hàng nhanh chóng nốc cạn vại bia của mình, nuốt vội những mẩu lúa mạch nướng cuối cùng rồi hấp tấp tan biến vào màn đêm. Duy chỉ còn sót lại cho Sally là năm vị lái buôn phương Bắc, họ đang uống dở chầu bia Springo thứ hai và khẽ khàng chuyện trò với nhau bằng thứ tiếng địa phương nghe như hát điếu trong đám tang. Ngay cả thằng nhỏ rửa chén cũng đã biến mất.
Miệng Sally khô khốc, bàn tay bà run rẩy và bà cố cưỡng lại ý muốn bỏ đi, chạy trốn. Bình tĩnh nào, cô bé, bà tự nhủ. Gan dạ lên. Chối bay tất cả. Thợ Săn không có lý do gì để nghi ngờ mi. Nếu mi bỏ trốn bay giờ, hắn sẽ biết là mi có liên can. Và Thợ Săn sẽ truy lùng mi. Hắn lúc nào mà chả truy lùng. Cứ ngồi im và làm như không có chuyện gì cả.
Chiếc kim chỉ giây của chiếc đồng hồ lớn trong quán trọ gõ nhịp.
Tích…Tắc…Tích…Tắc…
Bốn trăm chín mươi tám giây… Bốn trăm chín mươi chín giây… Năm trăm.
Một chùm đèn pha sáng loáng quét phăng qua đỉnh bãi rác.
Sally chạy bổ ra cửa sổ và chong mắt nhìn ra ngoài, tim bà đập thịch thịch. Bà đã thấy một đám hình thù đen thui, lố nhố, nổi bật trong luồng ánh sáng đèn pha.
Thợ Săn mang theo đội Truy sát của hắn, đúng như bà Marcia đã cảnh báo.
Sally căng mắt nhìn, ráng xem bọn chúng đang làm gì. Đội Truy sát bị xua tới xà quần quanh cửa chuột, cái cửa mà bà Marcia đã gắn kín lại bằng bùa Hàn và Khoá nhanh. Sally nhẹ cả người, đội Truy sát dường như không có gì vội vã; mà đúng ra, trông chúng có vẻ như đang cười cợt với nhau. Vài tiếng hét ngắt quãng vọng trôi tới quán. Bà Sally căng tai lắng nghe, và những gì nghe được khiến bà rụng rời.
“…Pháp sư chết tiệt…”
“…chuột mắc bẫy vì cửa chuột…”
“…đừng hòng thoát, ha ha. Bọn tao tới tóm chúng mày đây…”
Trong lúc quan sát, Sally có thể thấy những cái bóng bu quanh cửa chuột bắt đầu nổi đoá vì cánh cửa vẫn trơ trơ mặc cho chúng đã ráng sức kéo ra. Đứng tách ra khỏi đội Truy sát là một thân hình cô độc đang theo dõi một cách nóng nảy mà bà Sally chắc chắn là Thợ Săn.
Thốt nhiên, Thợ Săn mất kiên nhẫn trước mọi nỗ lực phá cửa chuột. Hắn sấn tới, giằng lấy chiếc rìu khỏi tay một tên trong đội và hùng hổ tấn công cánh cổng. Tiếng kim loại chát chúa vọng tới quán trọ cho đến khi cuối cùng cánh cửa chuột méo mó bị vạt qua, và một tên trong đội Truy sát được phái vào cầu trượt rác để bới rác. Một luồng đèn pha rọi thẳng vào trong cầu trượt rác, và đội Truy sát xúm quanh lối ra. Bà Sally có thể thấy những khẩu súng của chúng phản chiếu ánh đèn pha sáng loé. Tưởng như cả trái tim đã nghẹn lại trong miệng, bà chờ chúng khám ra con mồi của mình đã tẩu thoát.
Không phải mất lâu.
Một hình thù với đầu tóc bờm xờm ló ra khỏi cẩu trượt và bị Thợ Săn, kẻ mà bà Sally chắc chắn là đang tức như điên như cuồng, tóm lấy một cách thô bạo. Hắn hung bạo lắc lấy tên này và lẳng gã qua một bên, khiến gã lăn sóng sượt xuống sườn dốc của bãi rác. Thợ Săn khom xuống và ngó vào đầy nghi hoặc cái cầu trượt rác trống trơn. Bất chợt, hắn ra hiệu cho một tên còi cọc nhất trong đổi truy sát chui vào cầu trượt rác. Tên được chọn chần chừ lùi lại, nhưng liền bị đẩy vào, và hai tên truy sát khac cầm súng đứng chặn ở lối ra.
Thợ Săn đủng đỉnh bước tới rìa bãi rác để lấy lại bình tĩnh sau khi biết con mồi của mình đã vuột mất. Theo sau hắn, ở một khoảng cách an toàn, là một thân hình nhỏ tí của một thằng bé.
Thằng bé mặc áo thụng thường nhật màu xanh lá cây của học trò pháp thuật, nhưng không như bất kỳ học trò nào khác, quanh eo nó thắt một chiếc khăn quàng màu đỏ thêu hình ba ngôi sao màu đen. Ngôi sao của DomDaniel.
Nhưng vào lúc đó, Thợ Săn không để ý đến đứa học trò của DomDaniel. Hắn đứng lặng ngắt. Đó là một người đàn ông thấp bé với kiểu tóc húi cua của lính bảo hộ. Khuôn mặt hắn nâu xạm, nhăn nheo vì bao nhiêu năm tháng phơi mặt ngoài trực săn lùng và dò theo dấu con mồi là loài người. Hắn mặc trang phục thông thường của Thợ Săn: áo chẽn xanh lá cây đậm, áo chùng ngắn và ủng da nâu, nặng chịch. Quanh thắt lưng hắn đeo một sợi dây da to bản, trên đó treo một con dao để trong vỏ và một cái túi vải nhỏ.
Thợ Săn mỉm một nụ cười ác hiểm, miệng hắn mím lại thành một đường chỉ quyết đoán, xệ xuống ở hai khoé, đôi mắt xanh dương nhạt của hắn hịp lại nhe khoe nhòm. Vậy là, sắp sửa có một cuộc đi săn? Rất đúng, không gì hắn thích hơn một cuộc săn. Bao năm qua hắn đã từ từ leo lên hết những nấc bậc của Đội Săn, và cuối cùng hắn đã tiến được đến mục tiêu của mình. Hắn bây giờ là một Thợ Săn, người giỏi nhất trong đội, và đây là khoảnh khắc hắn chờ đợi bấy lâu. Hắn ở đây, không chỉ săn lùng Pháp sư Tối thượng mà còn truy tìm Công chúa, chính xác là Nữ hoàng. Thợ Săn cảm thấy phấn khích khi hắn hình dung ra một đêm nhớ đời: phát hiện, theo dấu, truy đuổi, áp sát và giết. Không có vấn đề gì, Thợ Săn nghĩ, nụ cười của gã ngoác ra thêm, để lộ những chiếc răng bé tí, nhọn hoắt dưới ánh trăng lạnh.
Những ý nghĩ của Thợ Săn quay về với cuộc đi săn. Có cái gì đó mách bảo hắn rằng bầy chim đã bay khỏi cầu trượt rác, nhưng là một Thợ Săn lành nghề, hắn cần phải bảo đảm cho tất cả mọi thứ được chu toàn, và tên lính Truy sát hắn phái vào trong đã được lệnh là phải đi hết cầu trượt rác rồi kiểm tra tất cả mọi ngõ thoát người lên Tháp Pháp sư. Việc đó chắc chắn “bất khả thi” nhưng cũng không làm động lòng Thợ Săn, bởi vì lính truy sát là cấp bậc thấp nhất, chỉ là một tên lính thí, và tên lính sẽ phải làm bổn phận của mình hoặc là chết. Thợ Săn từng là một lính thí, nhưng trong thời gian không lâu - chắc chắn rồi. Còn bây giờ, hắn nghĩ mà phấn khích đến run cả người, rằng hắn sẽ phải tìm ra được dấu vết.
Tuy nhiên, ngay cả với một cái máy dò lành nghề như Thợ Săn, bãi rác cũng chỉ cho một tí ti manh mối. Hơi nóng từ rác mục đã làm tuyết tan chảy; bọn chuột với mòng biển bới rác liên tục đã xoá sạch bất cứ dấu vết nào. Hay lắm, Thợ Săn nghĩ. Thiếu vắng dấu vết thì phải lùng sục để phát hiện vậy.
Thợ Săn đứng trên đỉnh cao chót vót của bãi rác và quan sát khung cảnh đẫm ánh trăng qua đôi mắt khép hí. Đằng sau hắn, những bức tường dốc, đen xì của Lâu đài dựng ngược lên, những gờ lỗ châu mai vẽ lớm chởm lên bầu trời đầy sao, lạnh lẽo. Trước mặt hắn, phong cảnh sống động của khu nông trại trù phú trải dài ra, viền quanh phía bờ xa kia của bờ sông, và xa xa phía đường chân trời, con mắt hắn chọc vào những sống lưng của dãy núi Biên cương, Thợ Săn nhìn chằm chằm, thật lâu khung cảnh phủ tuyết, nhưng chẳng thấy thứ gì khiến hắn quan tâm. Thế rồi hắn thu tầm nhìn về cảnh tượng ngay phía dưới chân hắn đây. Hắn nhìn xuống bờ sông dốc, rộng, mắt dõi theo dòng nước uốn mình chỗ khúc quanh và lao nhanh về phái bên phải hắn, chảy ngang qua cái quán ăn dựng chênh vênh trên chiếc cầu phao, đang bập bềnh nhẹ nhè trên mặt nước thuỷ triều dâng cao; lượn qua cái bến sông nhỏ tí, với những chiếc thuyền bỏ neo nghỉ đêm, và lại tiếp tục chảy xuống lòng sông rộng cho đến khi biến mất khỏi tầm nhìn đằng sau vách đá Quạ đen, một vách đã lộ thiên hình răng cưa nhô ra chắn ngang phía trên con sông.
Thợ Săn chăm chú lắng nghe những âm thanh nổi lên từ mặt nước, nhưng tất cả những gì hắn nghe được chỉ là sự thinh lặng do tấm màn tuyết mang đến. Hắn đảo khắp mặt nước tìm manh mối – có thể là một khoảng tối dưới những gõ đất, một con chim giật mình, một gợn sóng mách lẻo – nhưng hắn chẳng thấy gì cả. Không có gì cả. Một sự im lặng hoàn toàn và kỳ lạ, con sông đen lẳng lặng uốn khúc quanh khung cảnh tuyết trắng lại được ánh trăng tròn chiếu rọi thêm. Mặc dù vậy, Thợ Săn vẫn chắc mẩm đêm nay là một đêm cho Cuộc Đi săn.
Thợ Săn đứng bất động, căng người ra, chờ một cái gì đó tự lộ mình ra cho hắn thấy.
Theo dõi và chờ đợi…
Có cái gì đó đập vào mắt hắn. Một gương mặt trắng bợt ở khung cửa số quán trọ. Một gương mặt sợ hãi, một gương mắt biết điều gì đó. Thợ Săn nhếch mép cười. Hắn đã xong công đoạn Phát hiện. Giờ thì hắn trở lại công đoạn Theo dấu.

Chương 11 : Theo dấu

Sally thấy bọn chúng đi tới.
Bà lùi bắn khỏi cửa sổ, vuốt thẳng lại mấy lớp váy và thu thập các ý nghĩ. Đối mặt nào, bà tự nhủ. Mi làm được mà. Chỉ cần đeo bộ mặt chào mừng của bà chủ quán vào là chúng sẽ không nghi ngờ gì hết. Sally ra trốn sau quầy, và lần đầu tiên trong bấy nhiêu giờ phục vụ quán ăn, bà tự rót cho mình một vại bia Springo đặc biệt và tớp một ngụm lớn.
Èèèè! Có đời nào bà ưa cái món này đâu. Đối với khẩu vị của bà thì hình như dưới đáy thùng bia có quá nhiều chuột chết.
Khi Sally vừa nốc thêm một miệng đầy chuột chết, thì một luồng ánh sáng đèn pha cắt xoẹt vào trong quán và quét lướt qua những người có trong đó. Rất nhanh nó chĩa thẳng vào mắt Sally, rồi chuyển qua đậu trên những gương mặt xanh xao của đám lái buôn phương Bắc. Lúc này họ đã im bặt và trao đổi với nhau những cái liếc mắt đầy lo lắng.
Một lát sau, bà Sally nghe có tiếng những bước chân vội vã nện rầm rập đi tới trên cầu tàu. Chiếc cầu phao lắc lư khi đội Truy sát chạy ầm ầm trên đó, và quán trọ rung chuyển, chén đĩa cùng ly tách trong quán sợ sệt và vào nhau lanh canh theo nhịp chuyển động của bọn lính. Sally đặt cốc bia xuống, đứng thẳng lên và khó nhọc đặt một nụ cười chào đón khách lên mặt.
Cánh cửa bị đạp tung ra.
Thợ Săn khệnh khạng bước vào. Đằng sau hắn, trong luồng sáng của đèn pha, Sally có thể thấy đội Truy sát xếp hàng dọc theo cầu phao, súng lăm lăm trong tay.
“Xin chào quý ông.Tôi phục vụ quý ông món gì đây nào?” Bà Sally luyến láy một cách căng thẳng.
Thợ Săn nghe được sự run rẩy trong giọng nói của bà với vẻ thoả mãn. Hắn thích thú được thấy người ta sợ hãi.
Hắn thủng thỉnh đi đến quầy, cúi người xuống và nhìn Sally trừng trừng.
“Mụ có thể cho ta biết thông tin đấy. Ta biết mụ có thông tin.”
“Thế á?” Sally cố tỏ ra quan tâm một cách lịch sự. Nhưng Thợ Săn không nghe ra như thế. Hắn nghe thấy nỗi khiếp vía và liền chơi trò vờn mồi một chút.
Tốt, hắn nghĩ. Mụ này biết điều gì đó.
“Ta đang lùng một nhúm tàn quân khủng bố nguy hiểm,” Thợ Săn nói, cẩn thận theo dõi vẻ mặt của Sally. Bà chật vật giữ bộ mặt nghênh đón của bà chủ quán, nhưng trong một phần mười giây, vẻ mặt đó trượt đi, và một giây biểu cảm vụt qua nét mặt bà: ngạc nhiên.
“Ngạc nhiên vì nghe người ta gọi bạn bè mụ là bọn khủng bố, đúng không?”
“Không,” Sally buột miệng. Và rồi, nhận ra mình vừa lỡ lời, bà cà lăm, “Tôi… tôi không có ý đó. Tô…tôi…”
Sally đầu hàng. Vụ việc đã vỡ lở. Sao nó lại xảy ra dễ dàng đến thế nhỉ? Chính đôi mắt hắn, Sally nghĩ, chính hai đường rãnh quắc sáng, hí rị như hai tia đèn pha kia đã xoáy thẳng vào óc ngưòi ta. Thật nghớ ngẩn nếu nghĩ là mình có thể đánh lừa đựoc một Thợ Săn. Trái tim Sally đập thình thịch, lớn đến nỗi bà chắc chắn Thợ Săn cũng phải nghe thấy.
Tất nhiên là hắn nghe thấy. Đó là một trong những âm thanh hắn ưa thích nhất, tiếng tim đập của con mồi bị dồn vào góc tường. Hắn khoan khoái lắng nghe khoảnh khắc đó lâu hơn một chút nữa rồi ra lệnh.
“Mụ phải nói cho bọn ta biết chúng hiện ở đâu?”
“Không,” bà Sally mấp máy môi.
Thợ Săn xem ra chẳng nao núng gì với hành động phản kháng yếu ớt này.
“Mụ sẽ nói,” hắn nói với bà y như thật.
Thợ Săn tựa người vào quầy.
“Mụ có một nơi tươm tất đấy, Sally Mullin. Rất tươm tất. Xây bằng gỗ chứ gì? Từng tới đây rồi nếu ta nhớ chính xác.Gỗ tốt mùa khô. Cháy cực tốt, người ta bảo ta thế.”
“Không…” Sally thều thào.
“Ờm, ta định nói gì với mụ nhỉ. Mụ chỉ việc cho ta biết lũ bạn mụ đi đâu, và ta sẽ làm thất lạc hộp mồi lửa của ta…”
Sally không nói gì. Đầu óc bà đang chạy đua, nhưng những ý nghĩ lại chẳng được mạch lạc gì. Tất cả những gì bà nghĩ được hỉ là mình chưa đổ đầy than vào xô kể từ lúc thằng bé rửa chén làm cháy mớ khăn lau chén đĩa.
“Chà, thế thì,” Thơ Săn cà cưa. “Để ta bảo bọn con trai châm lửa vậy. Ta sẽ khoá hết mọi cửa nẻo lại khi ta đi. Bọn ta không muốn bất cứ ai chạy ra và bị thương, đúng không nào?”
“Ông không thể…” Sally thở dốc, hiểu rằng Thợ Săn không chỉ thiêu rụi cái quán yêu quí của bà mà còn định đốt trụi nó cùng với bà ở bên trong. Chưa kể năm vị lái buôn phương Bắc. Bà Sally liếc nhìn họ. Họ đang xì xào thấp thỏm với nhau.
Thợ Săn đã nói xong hết những gì hắn cần nói.Sự thể diễn ra hoàn toàn đúng như hắn dự tính, và bây giờ thì đến lúc hắn phải tỏ ra rằng mình đang thực thi công vụ. Hắn quay ngoắt lại và bước ra cửa.
Sally trợn mắt nhìn theo hắn, bất ngờ nổi cơn lôi đình. Làm sao hắn dám xông vào quán trọ của ta và làm cho khách hàng của ta kinh sợ chứ! Và còn doạ đốt tất cả chúng ta ra tro nữa sao? Tên kia, Sally nghĩ, chẳng là gì ngoài một thằng đi bắt nạt người. Bà không thích kẻ bắt nạt người khác.
Quyết liệt hơn bao giờ hết, bà Sally chạy vút ra từ phía sau quầy rượu.
“Hây!” Bà thét vang.
Thợ Săn mỉm cười.Có tác dụng rồi. Luôn luôn có tác dụng. Bước đi và để cho nạn nhân nghĩ ngợi một chốc. Chúng sẽ lôn luôn chạy theo. thợ Săn dừng lại nhưng không quay mặt.
Một cú đá ra trò vào cẳng chân từ chiếc úng cứng cáp của bà Sally khiến Thợ Săn chết sững.
“Đồ bắt nạt,” bà Sally hét lên.
“Đồ ngu,” Thợ Săn há hốc, chụp lấy cẳng chân. “Mụ sẽ hối tiếc vì chuyện này, Sally Mullin.”
Một tên lính Truy sát xuất hiện:
“Có rắc rối gì, thưa ngài?” Gã hỏi.
Thợ Săn chẳng hài lòng chút nào khi bị nhìn thấy đang nhảy loi choi một cách thiếu đường hoàng như thế này.
“Không,” hắn nạt. “Tất cả theo đúng kế hoạch”
“Các đội viên đã thu gom củi xong, thưa ngài, và đã xếp dưới quán theo đúng như lệnh ngài. Mồi lửa khô và đá lửa bén tốt, thưa ngài.”
“Tốt,” Thợ Săn gằn giọng.
“Xin lỗi, thưa ngài?”
Một giọng nói nặng nề vang lên sau lưng Thợ Săn. Một trong những vị lái buôn phương Bắc vừa rời khỏi bàn mình và đi tới chỗ Thợ Săn.
“Gì?” Thợ Săn đáp qua hàm răng nghiến chặt, quay mình trên cái chân đang trụ lại, đối mặt với người đàn ông.
Gã lái buôn đứng cúm rúm. Y mặc áo chèn màu đỏ bầm của Hiệp hội Hanseatic, rách tươm và vấy bụi đường. Mái tóc vàng bù xù của y được buộc lại bằng một sợi dây da nhẫy mỡ quanh trán, và mặt y trắng bệch như bột trong luồng sáng của đèn pha.
“Tôi tin là chúng tôi có thông tin ngài yêu cầu ạ,” tên lái buôn tiếp. Giọng gã chậm rì, tìm kiếm từ vụng của ngông ngữ xa lạ, cứ vút lên tựa như đặt câu hỏi.
“Có hả?: thợ Săn chất vấn, cơn đau ở cẳng chân cuối cùng cũng rời ra, để cho hắn bắt đầu thu lượm Dấu vết.
Bà Sally trợn trạo nhìn gã lái buôn phương Bắc, kinh hoàng. Làm sao gã biết được điều gì hả? Rồi bà hiểu ra. Chắc chắn gã đã nhìn trộm họ qua cửa sổ.
Gá lái buôn tránh ánh mắt buộc tội của Sally. Trông gã lấm la lấm lét, nhưng rõ ràng là gã hiểu những lời lẽ của Thợ Săn nên cũng sợ hãi.
“Chúng tôi tin là những kẻ ngài tìm đã đi rồi. Trên một chiếc thuyền,” gã lái buôn nói chầm chậm.
“Thuyền. Thuyền nào?” Thợ Săn nạt nộ, giờ hắn đã nắm được tình thế
“Chúng tôi không biết thuyền của các ngià ở đây. Một con thuyền nhỏ, buồm đỏ. Một gia đình với một con sói.”
“Một con sói. Hừ đồ đần độn,” Thợ Săn bực bội tiến đến gần gã lái buôn hơn và hạ giọng gầm gừ. “Hướng nào? Ngược dòng hay xuôi dòng. Về phía núi hay phía cảng? Nghĩ cho kỹ, anh bạn, nếu anh và đám bạn đồng hành của anh muốn được ấm thân đêm nay.”
“Ngược dòng. Về phía cảng,” tên lái buôn lẩm bẩm, cảm giác được hơi thở nóng hổi của Thợ Săn thật gớm ghiếc.
“Được,” Thợ Săn nói, đầy thoả mãn. “Ta đề nghị anh bạn và lũ bạn rời khỏi đây ngay trong khi còn có thể.”
Bốn tên lái buôn còn lại lẳng lặng đứng lên và bước về phía tên thứ năm, gằm mặt tránh ánh mặt nảy lửa của bà Sally. Rất nhanh, chúng lỉnh ra ngoài trời đêm, bỏ mặc Sally ở lại với số phận của bà.
Thợ Săn cúi chào bà với chút mai mỉa.
“Và chúc bà ngủ ngon nửa, thưa quý bà,” hắn nói. “Cảm ơn lòng hiếu khách của bà”
Thợ Săn bước ra và đóng sầm cánh cửa quán trọ lại sau lưng.
“Gài cửa cho chắc vào!” Hắn tức giận thét um. “Cả cửa sổ nữa. Cấm để mụ ta thoát!”
Thợ Săn hậm hực nện bước trên cầu tàu.
“Mang cho ta một chiếc thuyền đua” Hắn ra lệnh cho tên chạy việc đang chờ ở cuối lối đi. “Ở bên sông. Ngay!”
Thợ Săn ra đến bến sông và quay lại quan sát quán trọ bị bao vây của Sally Mullin. Hắn hết sức muốn được tận mắt chứng kiến lưỡi lửa đầu tiên trước khi rời đi, nhưng hắn không dừng lại. Hăn cần phải bắt kịp dấu vết trước khi nó nguội mất. Vừa sải bước ra đến bến sông để đợi chiếc thuyền đua tới, Thợi Săn vưa nở nụ cười mãn nguyện.
Không ai xử sự ngu ngốc với hắn mà lại yên lành thoát được.
Đằng sau Thợ Săn đang mỉm cười là tên Đồ Đệ. Nó có vẻ sưng sỉa vì bị bắt phải ở ngoài quán trọ, giữa trời lạnh nhưng nó cũng rất phấn khích. Nó túm chặt áo chùng quanh mình và tự ôm lấy thân trong trạng thái đè phòng. Đôi mắt đen của nó sáng rỡ, hai má nhợt nhạt đỏ tấy lên vị không khí ban đêm lạnh cắt da. Chuyến này hoá ra lại đúng là một cuộc phiêu lưư lớn như Chủ Nhân của nó đã bảo với nó. Đó là khởi đầu cho sự trở về của Chủ Nhân. Và nó là một phần của sự trở về ấy, bởi vì không có nó thì việc đã không xảy ra. Nó là cố vấn cho Thợ Săn. Nó là kẻ giám sát Thợ Săn. Kẻ có sức mạnh pháp thuật cho Ngày cứu thế. Một thoáng hoài nghi lướt qua tâm trí Đồ Đệ, nhưng nó gạt đi ngay. Nó cảm thấy mình quá quan trọng đến nỗi muốn thét lên. Hoặc nhảy lên. Hoặc đấm ai đó. Nhưng nó không thể. Nó cần phải làm như Chủ nhân bảo, thận trọng và im lặng đi theo Thợ Săn. Nhưng nó có thể đá, Nữ hoàng khi nó tóm được con bé… và sẽ cho con bé ấy biết tay.
“Dẹp mơ mộng đi , có lên thuyền hay không, hả?” Thợ Săn quát nó. “Ngồi đằng sau, tránh chỗ ra.”
Đồ Đệ làm y lệnh. Nó không muốn thừa nhận, nhưng đúng là Thợ Săn làm nó hoảng sợ. Nó cẩn thận bước vào phía đuôi thuyền và thu mình vào cái góc hẹp rí ở phía trước đội chèo thuyền.
Thợ Săn ngắm chiếc thuyền đầy vẻ ưng ý. Thon, dài láng mượt và đen tựa màn đêm, chiếc thuyền được bao bọc một lớp sơn mài bóng nhoáng, cho phép nó lướt trên nước nhẹ êm như người ta trượt trên băng. Với động cơ là mười tay chèo lực lưỡng được huấn luyện thành thạo, nó có thẻ vượt qua bất kỳ thứ gì trên mặt nước.
Ở đằng mũi, chiếc thuyền chở một đèn pha rọi cực mạnh và một giá đỡ ba chân để có thể lắp một khẩu súng lên trên. Thợ Săn cẩn trọng bước vào phía mũi thuyền và ngồi xuống tấm ván lót hẹp ở phái sau giá đỡ, tại đấy hắn thoăn thoắt gắn ngay khẩu súng bạc của Ám sát binh lên giá. Xong, hắn lôi một viên đạn bạc từ trong cái túi nhỏ ở thắt lưng ra, xem xét tỉ mỉ để chắc chắn rằng đó là viên đạn hắn muốn, rồi đặt vào một cái khay nhỏ bên cạnh khẩu súng trong tư thế sẵn sàng. Cuối cùng, Thợ Săn lôi ra năm viên đạn tiêu chuẩn từ hộp đạn trên thuyền và xếp chúng ra bên cạnh viên đạn bạc. Hắn đã sẵn sàng.
“Đi!” Hắn hạ lệnh.
Chiếc thuyền mũi tròn lướt êm như ru ra khỏi bến sông, bắt gặp dòng nước xiết ở giữa sông và mất hút vào đêm đen.
Nhưng trước khi biến mất, Thợ Săn đã kiọp liếc lại đằng sau và thấy cảnh tượng hắn vốn chờ đợi.
Một ngọn lửa đang uốn éo vươn vào màn đem
Quán ăn nhỏ của Sally Mullin bốc cháy rừng rực.

[SÁNG TÁC VĂN HỌC-KST.VN-QUÀ TẶNG HẤP DẪN]

Report




KSTS


Cash
1892 K$D
Posts
720

Space
Add
Poke
PM
9#
kuisuira Post on 1-10-2010 10:08:49 |View kuisuira's posts Chương 12 : Thuyền Muriel

Chiếc thuyền buồm Muriel đang xuôi được vài dặm trên dòng sông theo làn gió, và Nicko thật đúng là cá gặp nước. Nó đứng ở mũi con thuyền nhỏ đông đúc và lèo lái một cách điêu luyện, cho con thuyền uốn lượn giữa dòng sông, nơi nước chảy xiết và sâu. Thuỷ triều bập bềnh đang xuống nhanh và mang họ theo cùng, trong khi gió lên vừa đủ để tạo thành những dợn nước nhấp nhô và đẩy thuyền Muriel dập dềnh theo từng con sóng.
Mặt trăng đầy đặn vút cao trên bầu trời và gieo rắc ánh sáng bạc xuống dòng sông, soi lối họ. Dòng sông rộng hẳn ra khi xuôi dần về phía biển, và khi những người trên thuyền chong mắt ngó ra, họ nhận thấy hai bờ sông thấp chủn, với những thân cây chìa ra và thỉnh thoảng một túp lều trơ trọi xuất hiện, càng lúc càng xa. Sự thinh lặng rơi xuống khi các hành khách bắt đầu bồn chồn cảm thấy mình nhỏ nhoi giữa làn nước mênh mông. Bà Marcia bắt đầu cảm thấy muốn bệnh kinh khủng.
Jenna ngồi tren boong gỗ, tựa vào vách thuyền và giữ một sợi dây thừng cho Nicko. Sợi dây nối với cánh buồm nhỏ hình tam giác ở mũi tàu, hết giật mạnh lại kéo căng ra trước giớ. Và Jenna phải gồng hết sức để giữ nó cho chắc. Mấy ngón tay đã cứng đờ và tê dài, nhưng cô bé vẫn khong dám buông ra. Lái thuyền Nicko này hách dịch quá, Jenna nghĩ bụng.
Gó lạnh căm, ngay cả với chiếc áo len chui cổ dày, chiếc áo gió da cừu và cái mũ len ngứa ngày mà Silas đã tìm được cho cô bé trong tủ quần áo của bà Sally, Jenna vẫn lập cập do cái lạnh từ làn nước bốc lên.
Nằm tròn vo bên cạnh Jenna là Con Trai 412. Từ lúc Jenna kéo nó lên thuyền, Con Trai 412 quyết định sẽ không làm thêm bất cứ điều gì và cũng thôi không chống đối đám pháp sư cùng bọn con nít lập dị. Khi con thuyền Muriel vòng qua vách đá Quạ đen và không còn trông thấy lâu đài nữa, Con Trai 412 chỉ cuộn mình lại như quả bong bên cạnh Jenna và ngủ thiếp đi. Do lúc này chiếc Muriel đã đi vào vùng nước dữ hơn, nên cái đầu thằng bé cứ đập thùm thụp vào cột buồm theo nhịp lực của con thuyền, và Jenna nhẹ nhàng dời Con Trai 412 ra, đặt đầu nó lên đùi mình. Cô bé ngó gương mặt gầy nhom, tiều tuỵ gần như khuất hẳn trong chiếc nón nỉ màu đỏ của thằng bé và nghĩ rằng Con Trai 412 ngó sung sướng trong khi ngủ hơn là khi thức. Sau đó ý nghĩ của cô bé quay sang bà Sally.
Jenna thích bà Sally lắm. Cô bé thích cái cách bà nói không bao giờ ngừng và cái cách bà gây ra mọi việc. Mỗi khi Sally ào đến thăm gia đình Heap, bà luôn mang theo mình sự sôi đồng của cuộc sống trong Lâu đài, và Jenna rất thích điều đó.
“Con hy vọng bà Sally sẽ không sao” Jenna vừa lặng lẽ nói và lắng nghe tiếng cọt kẹt đều đặn và tiếng vút nhẹ đầy quả quyết của con thuyền mỏng mảnh đang lao xuyên dòng nước đen loang loáng.
“Ba cũng mong thế, bé con” Silas nói, chìm trong suy tư.
Vì Lâu đài đã biến khỏi tầm nhìn, nên giờ đây Silas đã có thời gian để mà suy nghĩ. Và, sau một hồi nghĩ về Sarah cùng các con trai, với hy vọng họ đã đến được ngôi nhà trên cây của bà lang Galen trong cánh rừng, luồng suy nghĩ của ông cũng quay về với bà Sally, những ý nghĩ này làm ông nặng trĩu, bất an.
“Bà ấy sẽ ổn mà” bà Marcia thều thào. Bà muốn bệnh và bà không thích như thế tí nào.
“Cô thì lúc nào chả nói thế, Marcia” Silas gắt. “Vì cô là Pháp sư Tối thượng, nên cô chỉ viếc lấy từ người khác thứ cô muốn và không để cho người ta có suy nghĩ nào khác. Cô không sống trong thế giới thực nữa sao? Không như bọn Pháp sư Thường đẳng chúng tôi. Chúng tôi biết thế nào là nguy hiểm chứ.”
“Thuyền Muriel lướt lẹ quá” Nicko hớn hở nói, cố thay đổi đề tài. Nó không thích mỗi khi Silas tức giận về Pháp sư thường đẳng. Nicko nghĩ bụng, Pháp sư Thường đẳng thì cũng tốt chứ sao. Bản thân nó thì không quá thích điều đó - phải đọc bao nhiêu là sách không có thời gian để dong thuyền nhưng nó nghĩ đó là một nghề cao quý, đáng tôn kính. Và ai mà lại muốn làm Pháp sư Tối thượng cơ chứ? Gần như toàn bộ thời gian là bị nhốt trong toà tháp quái dị đó và không bao giờ đi đâu mà không có người trố mắt, ngần người ra nhìn. Nó sẽ không bao giờ muốn như thế cả.
Bà Marcia thở dài:
“Tôi nghĩ rằng tấm bùa Hộ vệ bạch kim tôi gỡ từ thắt lưng ra đưa cho bà ấy sẽ được việc” bà nói từ tốn, mắt đăm đăm nhìn về bờ sông xa xôi.
“Cô đưa Sally một trong những bùa bất ly thân của cô à?” Silas hỏi, giọng kinh ngạc. “Bùa Hộ vệ? Sao liều vậy? Cô sẽ cần tới nó mà”
“Bùa Hộ vệ đó sẽ tự phát huy tác dụng trong trườgn hợp tối khẩn cáp. Sally sẽ đến ở cùng Sarah và bà lang Galen. Cái bùa rồi có thể sẽ có ích cả cho máy người đó. Thôi, im lặng. Tôi sắp phát bệnh rồi đây này.”
Một sự im lặng khó chịu rơi xuống.

“Thuyền Muriel đi ngon lắm., Nicko. Con là một thuỷ thủ cừ khôi” một lúc sau, Silas nói.
“Cảm ơn ba,” Nicko nói, mỉm cười khoáng đạt, hệt như nó vẫn cười thế mỗi khi lái êm được một con thuyền. Nicko đang thành thạo lèo lái con thuyền Muriel dòng nước, vừa giữ thăng bằng bánh lái, chống lại sức mạnh cảu cơn giớ tren những lá buồm và khiến con thuyền nhỏ hát cả xuyên qua những con sóng.
“Phải Đầm Cỏ Thô đó không, ba?” Nicko hỏi sau một hồi, tay chỉ về phía bờ sông xa bên trái. Nó nhận thấy phong cảnh xung quanh họ đã thay đổi. Bây giờ thuyền Muriel đang lướt xuôi xuống khoảng nước mở rộng ngút ngàn, và xa xa, Nicko có thẻ thấy một dải đất bằng phẳng nằm phơi mình, phủ đầy tuyết và lấp loá dưới ánh trăng.
Silas theo dõi mắt nhìn khắp dòng nước,
“Có lẽ con nên lái theo lối kia một chút, Nicko” Silas đè nghị, khoát cánh tay vè cái hướng bao quát mà Nicko vừa chỉ. “Sau đó chúng ta phải chú ý tìm cho ra Rạch Nước Sâu. Đó là nơi chúng ta cần.”
Silas hy vọng mình còn nhớ đường vào Rạch Nước Sâu, con kênh dẫn tới cái lều của Người Giữ Đầm, nơi dì Zelda sống. Đã lâu lắm rồi ông chưa gặp lại dì Zelda của mình, và đầm lầy ngó vẫn y như cũ đối với Silas.
Nicko vừa mới thay đổi lộ trình và đang hướng về phái mà cánh tay của Silas khoát tới thì một luồng sáng rực cắt ngọt qua màn đêm ở phía sau họ
Đó là cái đèn pha rọi của chiếc thuyền mũi tròn.

Chương 13: Cuộc truy đuổi

Tất cả mọi người- ngoại trừ Con Trai 412 vẫn đang ngủ say sưa- đều trừng trừng ngó vào bóng tối. Trong lúc đó ánh đèn pha lại quýet ngang dường chân trời một lần nữa, sáng rức cả một khoảng sông rộng lớn cùng đôi bờ thấp hai bên. Không nghi ngờ gì nữa, trong đầu ai cũng hiểu đó là cái gì.
“ Thợ Săn, phải không ba?” Jenna thì thào.
Silas biết là Jenna nói đúng nhưng ông bảo:
“ À, nó có thể là bất cứ cái gì, con à. Thuyến đánh cá…hoặc cái gì đó,” ông thêm vào, nhát gừng.
“ Dĩ nhiên đó là Thợ Săn rồi. Trên một chiếc thuyền mũi tròn truy nhanh, nếu tôi không nhầm,” bà Marcia gắt, bỗng nhien bà không còn cảm thấy muốn bệnh nữa.
Bà Marcia không nhận ra, nhưng bà hết nmuốn bệnh chính là vì chiếc Muriel đã thôi không dập dềnh trên dòng nước nữa. Thật ra lúc này Muriel hầu như dã ngừng hoạt động, chỉ lờ đờ trôi vô định.
Bà Marcia nhìn Nicko với vẻ kết tội:
“ Đi tiếp đi, Nicko. Sao cậu lại chạy chậm vậy?”
“ Cháu không làm gì được. Gió ngừng rồi,” Nicko lầm bầm lo lắng. Cậu vừa mới rẽ chiếc Muriel vào đầm lầy và nhận ra gió đã im bặt. Thuyền Muriel mất sạch tốc độ, và những cánh buồm của nó rũ rượi.
“ Ừm, chúng ta không thể cứ ngồi đây,” bà Marcia nói, nhấp nhổm nhìn ánh đèn pha rọi đang sầm sập lao tới gần. “ Vài phút nữa là cái thuyền múi tròn sẽ tới đây thôi.’
“ Cô không thể thổi bùng một ít gió lên cho chúng ta sao?” Silas nóng nảy chất vấn bà Marcia “ Tôi nghĩ cô đã thực môn Kiểm soát Môi trưòng trong lớp Nâng cao rồi chứ. Hay làm cho chúng ta thầnh vô hình. Nào, Marcia. Làm gì đi chứ.”
“ Tôi không thể thổi bùng một ít gió lên như anh muốn được. Không còn đủ thời gian. Và anh thừa biết Tàng hình là một thần chú dùng cho cá nhân. Tôi không thể làm cho bất cứ người nào khác”
***
Đèn pha rọi lại quét phăng qua mặt nước. Lớn hơn, sáng rực hơn và gần hơn. Và đang hướng về phía họ nhanh hơn.
“ Chúng ta phải dùng mái chèo thôi, “Nicko nói. Nó với tư cách thuyền trưởng, quyết định thi hành trách nhiệm . “ Chúng ta có thể chèo tới đàm lầy và núp ở đó. Đi. Lẹ lên”
Bà Marcia, Silas và Jenna, mỗi người tóm lấy một mái chèo. Con Trai 412 giật mình choàng tỉnh dậy khi Jenna buông đầu nó rớt phịch xuống sàn để vội vã chộp lấy mái chèo. Nó nhìn xung quanh vẻ đau khổ. Tại sao nó vẫn còn ở trên thuyền với bọn pháp sư này vậy? họ muốn gì ở nó?
Jenna ấn mái chèo còn lại vào tay nó.
“ Chèo đi!” Jenna bảo nó. “Nhanh hết sức vào!” Giọng của Jenna nhắc Con Trai 412 nhớ tới giáo viên huấn luyện thực hành của nó. Nó thò mái chèo xuống nước và chèo lấy chèo để.
Chậm chap, quá sức chậm chạp, thuyền Muriel bò về chốn an toàn Đầm Cỏ Thô trong khi đèn pha của chiếc thuyền kia cứ vùn vụt lia ra trước về sau khắp mặt nước, lồng lộn tìm kiếm con mồi.
Jenna ngoái ra sau nhìn một cái, và thất kinh, thấy cái khối đen thui của chiếc thuyền đua. Trông nó giống như một con bọ hung kinh tởm, dài thoòng, với năm cặp giò đen khẳng khiu lầm lũi quạt nước tới rồi lui, tới rồi lui, cùng đội tay chèo tinh luyện tự đẩy mình và con thuyền đi hết tốc lực, nhânh hơn hẳn những thành viên khác đang cuống quít chèo của chiếc Muriel.
Ngồi đằng mũi thuyền là cái dáng không thể lầm lẫn được của Thợ Săn, căng người ra và sẵn sàng phóng tới. Jenna bắt gặp tia nhìn lạnh lùng, đầy mưu tính của Thợ Săn và đột nhiên cô bá cmả thấy đủ dũng cảm để nói với bà Marcia.
“ bà Marcia,” Jenna nói. “ Chúng ta sẽ không tới kịp đàm lầy. Bà phải làm gì đó. Ngay”
Dẫu có bị ngỡ ngàng do bị ra lệnh trực tiếp như thế, nhưng bà Marcia vẫn đồng ý. Nó năng đúng như Công chúa thực sự, bà nghĩ.
“ Đựơc,” bà Marcia chấp thuận. “ Để tôi giăng một màn sương. Tôi có thể làm trong năm mươi ba giây. Nếu trời đủ lạnh và ấm.”
Thuỷ thủ đoàn chiếc Muriel chắc mẩm là không có vấn đè gì với dộ lạnh và độ ấm. Họ chỉ hi vọng mình còn lại được nưm mươi ba giây.
“ Tất cả mọi người ngưng chèo,” Bà Marcia ra lệnh. “ Ngồi im. Và yên lặng. Thật yên lặng.” Thuỷ thủ đoàn chiếc Muriel làm y lệnh và trong bầu thinh lặng vừa rơi xuống, họ nghe thấy mộtk âm thanh mới ở đằng xa. Tiếng toé nước nhịp nhàng của những mái chèo chiếc thuyền đua.
Ba Marcia loạng choạng đứng dậy, lòng mong sao cái sàn đừng chao đảo dữ như thế này . Rồi bà dựa lưng vào cột buồm để giữ thăng bằng, hít một hơi thật sâu và giang rộng hai cánh tay, áo chùng của bà bay phấp phới như một đôi cánh tía.
“ U Minh Thức giấc!” Pháp sư Tối thượng thù thầm to hết mức. “U Minh thức giấc và Che phủ!”
Đó là một thần chú tuyệt đẹp. Jenna quan sát những đám mây trắng , dày dặc tự lắp ghép vào nhau trên bầu trời sáng trăng, nhanh chóng che kín mặt trăng và phóng một luông khí lạnh thấu xương vào bầu không khí ban đêểmTong bóng tối, tất cả trở nên im lìm như chết khi những dải khói loắn xoắn đầu tiên bắt dầu bay lên khỏi mặt nước đen ngòm, ngút tầm mắt. Nhanh hơn, càng lúc càng nhanh, những dải khói lớn dần, kết lại với nhau và tạo thành những màn sương dày đặc; trong khi đó, sương mù từ đầm lầy cuồn cuộn lơ lửng trên mặt nước đén hoà nhập với chúng. Ở chính giữa, ngay tầm mắt của màn sương, là chiếc Muriel, điềm tĩnh và kiên nhẫn chờ trong khi màn sương chấp chới, cuồn cuộn và dày lên xung quanh nó.
Chẳng bao lâu sau chiếc Muriel đã được bao phủ một lớp màn trắng dày, toả khí lạnh tới tận xương Jenna. Sát bên cạnh mình, cô bé cảm thấy Con Trai 412 bắt đầu run lẩy bẩy. Nó vẫn còn lạnh từ sau cú bị vùi dưới tuyết.
“ Chính xá năm mươi ba giây,” giọng bà Marcia bật rea từ bên ngoài màn sương.” Không tồi”.
“ Suỵt!” Silas nhắc.
Co thinh lặng màu trắng ập vào con thuyền nhỏ. từ từ, Jenna bất giác đưa một bàn tay lên và đặt nó trước con mắt mở lớn của mình. Cô bé không thấy gì ngoài một man trẵng xoá. Nhưng lại có thể nghe thấy tất cả.
Cô bé nghe được tiếng hoà nhịp của mười mái chèo sắc như dao chém phập xuống nước, nhấc lên lại chém xuống, lên lại xuống.
Cô bé nghe được tiếng lướt vun vút của mũi thuyền truy đuổi, đang xé văng con sông, và bây giờ, chiếc thuyền đó gần ddến nỗi có thể nghe được tiếng thở hì hụi của những tay chèo.
“ Dừng!” giọng Thợ săn gầm lên xuyên qua màn sương. tiếng mái chèo ngừng khua và thuyền đua dừng phắt lại. Bên trong màn sương, các thành viên thuyền Muriel nín thở, tin chắc là thuyền kia đang ở sát mình, có lẽ sát đến nỗi họ có thể đưa tay ra chạm vào. hoặc không cũng đủ sát cho Thợ săn có thể phóng ào qua khoang thuyền đông nghẹt của Muriel…
Jenna cảm thấy tim mình đập vừa nhanh vừa lớn, nhưng cô bé ráng hít thở chầm chậm, im kặng và ngồi thật yên. Cô bé biết rằng mặc dù chúng không thể thấy đựoc nhưng chứng vẫn có thể ngh e được. Nicko và bà Marcia cũng làm tương tự. Silas cũng thế, thêm vào đó, ông còn chú ý úp một bàn tay khoá chặt cái mõm dài, ướt át của Maxie để ngăn không cho nó tru lên,còn bàn tay kia chậm rãi và dịu dàng vuốt ve chú chó đang kích động – chú chó đã hoảng hồn trước cảnh tưọng màn sương.
Jenna cảm thấy Con Trai 412 cứ run liên hồi. Cô bé chậm rãi vòng tay kéo nó sát lại mình và cố ủ cho nó ấm. con Trai 412 có vẻ rất căng thẳng. Jenna bảo đảm là nó dang chăm chú lắng nghe giọng nói của Thợ săn.
“ Bắt được chúng rồi,” Thớ Săn nói. “ Theo ta biết thì đay là Màn sương Bị Ếm. Và người ta sẽ luôn luôn thấy gì ở giữa một màn sương Bị Ếm nào? Môtj pháp sư đang niệm chú. Cùng đồng bọn của mụ.”
Tiếng cười khùng khục, trầm đặc đầy mãn nguyện của hắn xuyên qua màn sương và khién cho Jenna rùng mình.
“ Đầu … hàng.. mau.”
Giọng quái gở của Thợ Săn bao phủ thuyền Muriel.
“ Nè H.. Công chúa không việc gì phải sợ bọn ta. Lũ tụi bay cũng vậy. Bọn ta chỉ muốn các ngươi an toàn và muốn hộ tống các người trở lại Lâu đài trước khi các người gặp tai nạn xúi quẩy.”
Jenna ghét cái giọng thơn thớt của Thợ Săn. Cô bé ghét cái tình thé họ không thể thoát khỏi được này, cứ phải ngồi im thin thít và nghe lời nói láo mươt như nhung của hắn. cô bé muốn thét vào mặt hắn. Cho hắn biết rằng cô bé là chỉ huy ở đay. Rằng cô bé đừng hòng nghe lời đe doạ. Rằng không lâu nữa hắn sẽ phải hối tiếc. Thế rồi Jenna ảm thấy Con Trai 412 hít một hơi dài và cô bé biết chính xác nó sắp sửa làm gì.
Thét.
Jenna ụp bàn tay mình chặt quanh miệng Con Trai 412. Nó giãy giụa vật lộn với cô bé và cố đẩy cô bé ra, nhưng tay kia của cô bé tóm lấy hai cánh tay nó và giữ chặt hai bên sườn. Jenna mạnh mẽ so với kích thước của mình và lại nhanh nhẹn. Con Trai 412 không bì lại được với cô bé, nó ốm và yếu quá.
Con Trai 412 tức giận. Cơ hội tự cứu nguy cuối cùng của nó đã bị cản lại. đang lí ra nó đã có thể quyay trở lại Thiếu sinh quân như mộy anh hùng, đã dũng cảm đánh lạc hướng bọn pháp sư dể tẩu thoát. Thay vào đó, nó lại bị bàn tay nhỏ nhắn, bẩn thỉu của Công Chúa ấn vào miệng, khiến nó cảm thấy buồn nôn. Và cô ta lại khoẻ hơn nó. Như thế không tốt. Nó là con trai và con nhỏ đó chỉ là một đứa con gái ngu ngốc. Trong cơn cuồng giận, Con Trai 412 đá vung chân và đập xuống sàn thuyền một tiếng thịch lớn. Lập tức Nicko chồm lên người nó, đè hai cẳng chân nó xuống và giữ chắc đến nỗi nó hoàn toàn không thể cựa quậy hay phát ra âm thanh nào nữa.
Nhưng thế cũng đủ gây ra hỏng chuyện. Thợ Săn đang lắp viên đạn bạc vào khẩu súng. Cú dá giận dữ của Con Trai 412 là tất cả những gì Thợ Săn cần để định vị chính xác xem họ đang ở đâu. Hắn mỉm cười một mình khi quay khẩu súng trên giá đỡ ba chân dối diện với màn sương. Quả thật hắn dang ngắm thẳng vào Jenna.
Bà Marcia nghe được tiếng kim loại lách cách của viên đạn bạc được lắp vào súng, âm thanh bà đã nghe thấy một lần trước kia và không bao giờ quên. Bà suy nghĩ nhanh. Bà có thể ếm Bao quanh và Bảo vệ, nhưng bà hiểu Thợ Săn thừa biết rằng hắn chỉ việc nhìn và chờ đợi cho đén khi bùa tan đi. Giải pháp duy nhất, bà Marcia nghĩ, là Phản chiếu. Bà chỉ hi vọng là mình còn đủ năng lượng để giữ phép này.
Bà Marcia nhắm mắt lại và niệm Phản chiếu. Bà Phản chiếu một hình ảnh chiếc thuyền Muriel và tất cả mọi người trên thuyền dong buồm ra khỏi màn sương với tốc độ tối đa. Như tất cả mọi phép Phản chiếu, nó giống như nột hình ảnh soi ngược trong gương, nhưng bà hy vọng trong bóng tối, và với leiruM đã phóng hết tốc lực, Thợ Săn sẽ không nhận ra.
“ Thưa ngài!” Giọng hoảng hốt của một tay chèo. “ Chúng đang bỏ chạy khỏi chúng ta, thưa ngài!”
Tiếng châm ngòi súng dừng lại. Thợ Săn nguyền rủa.
“ Đuổi theo, dồ ngu!” Hắn quát bọn chèo thuyền.
“ Nhanh nữa!” Thợ Săn gào điên cuồng, không thể chịu nổi cảnh con mồi của mình chạy thoát lần thứ ba trong đêm.
Bên trong màn sương, Jenna và Nicko toét miệng cười.
Ghi điểm 1-0 cho họ.

[SÁNG TÁC VĂN HỌC-KST.VN-QUÀ TẶNG HẤP DẪN]

Report




KSTS


Cash
1892 K$D
Posts
720

Space
Add
Poke
PM
10#
kuisuira Post on 1-10-2010 10:10:49 |View kuisuira's posts CHƯƠNG 14 RẠCH NƯỚC SÂU

Bà Marcia đang cáu. Rất cáu. Giữ cho hai câu thần chú hoạt động cùng một lúc là một công việc khó khăn. Nhất là một trong hai chiêu đòn đó là Phản chiếu, là một dạng Đảo ngược của pháp thuật; lại thêm nữa, không như hầu hết những chiêu mà bà Marcia thường sử dụng, chiêu này còn dính líu với phía Hắc ám – hay Phía kia, như bà Marcia thích gọi như vậy hơn. Cần phải là một pháp sư can đảm và tài năng mới sử dụng Pháp thuật Ngược mà không phải mời Phía kia nhúng vào. Ngài Alther đã dạy bà Marcia rất kỹ, bởi nhiều thần chú trong số thần ngài học được từ Dom Danid thực tình đều phải vận tới Pháp thuật Hắc ám, và ngài Alther đã trở thành một bậc thầy tinh thong trong việc ngăn chặn Pháp thuật hắc ám thể hiện ra. Bà Marcia cũng thấy rất rõ rằng trong suốt thời gian bà sử dụng Phản chiếu, thì Phía kia luôn lượn lờ quanh họ, chỉ chực chờ cơ hội là đột nhập vào câu niệm chú.
Chính điều đó giải thích tại sao bà Marcia cảm thấy như thể đầu óc mình không còn chỗ trống để chứa đựng bất kỳ thứ gì khác, chứ đừng nói là nỗ lực phải tỏ ra lịch sự.
“Lạy trời, làm cho con thuyền rách nát này chuyển động coi, Nicko,” bà Marcia quát. Nicko coi bộ bị xúc phạm. Không cần phải nói với nó kiểu đó.
“Ai chèo thì chèo đi,” Nicko lẩm bẩm. “Phải cho người ta biết là đi đâu chứ?”
Với một chút cố gắng, và thêm vài đợt cáu gắt, bà Marcia khoét một đường hầm xuyên qua màn sương. Silas im lặng. Ông biết mà Marcia đang phải vận dụng một khối năng lượng và tài năng pháp thuật khổng lồ, và ông cảm thấy một sự tôn kính đến đố kỵ đối với bà. Trước nay chưa cách chi mà Silas dám thử chiêu Phản chiếu, chứ đừng nói là cùng lúc giữ cho được một màn sương hoành tráng. Ông thật tình thầm khem bà – rằng bà rất giỏi.
Silas để yên cho bà Marcia cùng với pháp thuật của bà và ông chèo thuyền Muriel qua đường hầm màn sương dầy trắng như tổ kén, trong khi Nicko cẩn thận bẻ lái con thuyền về phía bầu trời sao lấp lánh ở cuối đường hầm. Chẳng bao lâu sau Nicko cảm thấy đáy thuyền đã cà dọc theo mặt cát gồ ghề, và thuyền Muriel này xóc vào những bụi cỏ dày.
Họ đã đến chốn an toàn của Đầm Cỏ Thô.
Bà Marcia thở phào một hơi nhẹ nhõm và buông cho màn sương tan biến, Tất cả mọi người thư giãn, ngoại trừ Jenna. Jenna, tuy là đứa con gái duy nhất trong một gia đình sáu anh trai nhưng cũng học được một hai ngón nghề, đang đè sấp Con Trai 412 xuống sàn thuyền bằng một cú khóa tay.
“Buông nó ra, Jen” Nicko bảo.
“Tại sao?” Jenna hỏi lại.
“Nó chỉ là thằng ngốc thôi mà.”
“Nhưng nó làm cả đám tụi mình suýt bị giết. Tụi mình cứu sống nó khỏi bị vùi trong tuyết mà nó lại phản bội tụi mình,” Jenna giận dữ nói.
Con Trai 412 im lặng. Vùi trong tuyết? Cứu sống? Tất cả những gì nó còn nhớ là đã ngủ mê bên ngoài Tháp Pháp sư và sau đó thức dậy thành một tên tù trong những căn phòng của bà Marcia
“Buông nó đi, Jenna,” Silas bảo. “Nó không hiểu chuyện gì đang xảy ra đâu.”
“Thôi được,” Jenna hơi miễn cưỡng phóng thích Con Trai 412 khỏi cú khóa tay. “Nhưng con nghĩ nó là đồ con heo.”
Con Trai 412 từ từ ngồi dậy, xoa xoa cánh tay. Nó không thích cách tất cả mọi người trố mắt dòm nó. Và nó không thích cái cách mà con nhỏ Công chúa gọi nó là con heo, nhất là sau khi con nhỉ đã đối xử tử tế với nó. Con Trai 412 cố hết sức nằm rúc ra xa khỏi Jenna và ráng lục lọi các thứ trong đầu ra. Không dễ chút nào. Không hiểu gì cả. Nó cố nhớ xem người ta đã dạy nó những gì ở Thiếu sinh quân.
Sự kiện. Chỉ toàn là những sự kiện. Sự kiện tốt. Sự kiện xấu. Như vậy là:
Sự kiện Một. Bị bắt cóc. XẤU.
Sự kiện Hai. Mất đồng phục. XẤU.
Sự kiện Ba. Bị đẩy xuống cầu trượt rác. XẤU. Rất XẤU.
Sự kiện Bốn. Bị tống vào con thuyền lạnh lẽo, hôi hám. XẤU.
Sự kiện Năm. Không (Chưa) bị bọn pháp sư giết. TỐT.
Sự kiện Sáu. Chắc chắn sẽ sớm bị bon Pháp sư giết. XẤU.
Con Trai 412 đếm số Tốt và Xầu. Như thường lệ, điều Xấu nhiều hơn điều Tốt, việc này không làm nó ngạc nhiên.
Nicko và Jenna leo ra khỏi thuyền Muriel và trườn lên bờ cỏ bên cạnh bãi cát nhỏ, chỗ thuyền Muriel đậu với những cánh buồm rủ xuống. Nicko muốn rút khỏi chức chỉ huy con thuyền một lát. Cậu đã đảm trách vai trò thuyền trưởng một cách nghiêm túc, và trong thời gian ở trên thuyền Muriel cận đã cảm thấy rằng nếu có gì không ổn xảy ra thì đó là lỗi tại cậu. Jenna vui mừng vì lại được đặt chân lên mặt đất khô ráo, hay có hơi hơi lầy lôi một tí – mảng có cô bé ngồi lên ướt đẫm, mềm oặt, như thể mọc lên từ một miếng bọt biển sũng nước và được bao phủ trong một lớp tuyết mỏng.
Khi đã ở một khoảng cách an toàn với Jenna, Con Trai 412 liều ngước lên nhìn và thấy một thứ khiến nó dựng cả tóc gáy.
Pháp thuật. Pháp thuật cực mạnh.
Con Trai 412 tròn mắt nhìn bà Marcia. Mặc dù hình như không ai khác nhận ra, nhưng nó có thể thấy màn năng lượng pháp thuật bao quanh bà. Lớp màn làm phừng lên một quầng sáng đỏ tía, tỏa rực khắp bề mặt tấm áo chùng Pháp sư Tối thượng của bà, khiến cho mái tóc xoăn đen của bà lóa lên thành màu đỏ tía. Đôi mắt xanh là cây sáng quắc của bà lóa lên khi bà nhìn đăm đăm vào cõi vô cực, quan sát cuốn phim câm mà chỉ có một mình bà nhìn thấy. Bất chấp đã được huấn luyện môn Chống Pháp sư ở Thiếu sinh quân, Con Trai 412 vẫn thấy mình vô cùng kinh sợ trước sự hiện diện của pháp thuật
Cuốn phim bà Marcia đang xem, dĩ nhiên là hình phản chiếu của chiếc leiruM và sáu thủy thủ đoàn. Họ đang căng buồm lao nhanh về phía cửa song rộng và sắp tới vùng biển rộng nơi bến cảng. Trước sự sửng sốt của Thợ Săn, họ đang tiến với tốc độ không thể tin nổi đối với một chiếc thuyền buồm nhỏ, và mặc cho là đã cố hết sức để không cho chiến leiruM vuột khỏi tầm nhìn, chiếc thuyền đua vẫn rất vất vả trong việc rút ngắn dần khoản cách để Thợ Săn có thể khai hỏa viên đạn bạc. Mười tay chèo đã thấm mệt, và Thợ Săn thì khản cả giọng vì la hét: “ Lẹ lên, bọn ngu kia.”
Đồ đệ ngồi ngoan ngoãn ở cuối thuyền trong suốt cuộc Truy đuổi. Thợ săn càng nổi xung thiên. Nó càng không dảm ho he điều gì và lại càng tụt lún vào trong cái khoảng không gian tí xíu của nó sát ngay đôi chân ướt đẫm mồ hôi của tay chèo Số Mười. Nhưng rồi dần dần, khi tay chèo Số Mười bắt đầu lầm bầm tuôn ra những lời nguyền rủa cực kỳ thô lỗ cùng những lời bình phẩm thú vị về Thợ Săn, thì Đồ Đệ cảm thấy can đảm hơn một chút. Nó nhìn chăm chăm qua mặt nước và xoáy thẳng vào chiếc leiruM đang lao như tên bắn. Càng nhìn leiruM nó càng biết chắc là có cái gì đó kỳ dị.
Cuối cùng Đồ Đệ cũng dám hét to lên với Thợ Săn. “Ngài có thấy tên con thuyền kia bị ngược không?”
“Dẹp kiểu khôn lỏi đó với tao đi, nhóc.”
Thị lực của Thợ Săn rất tốt, nhưng có lẽ không tốt bằng một thằng bé mười tuổi, có thú sưu tầm và đặt tên cho loài kiến. Chẳng phải khi không mà Đồ Đệ ngồi hàng nhiều giờ liền bên chiếc ống nhòm của Chủ Nhân nó, ẩn náu xa tít tắp nơi Vùng Đất hoang, ngắm dòng sông. Nó thuộc tên và lịch sử của tất cả mọi tàu thuyền lui tới trên sông, Nó biết rằng con thuyền chúng đang đuổi theo trước lúc có màn sương thì tên là Muriel, do ông thợ Rupert Gringe đóng và được đem cho thuê để bắt cá trích. Nó cũng biết là sau khi có màn sương con thuyền có tên là leiruM. Chiếc leiruM chính là hình phản chiếu của Muriel. Và nó đã là Đồ Đệ của Dom Daniel đủ lâu để biết chính xác điều đó có nghĩa là gì.
leiruM là một phép Phản chiếu, một phép Ma hiện, một Ảo ảnh, một Ảo tưởng.
May cho Đồ Đệ, nó vừa định báo cho Thợ Săn sự kiện thú vị này thì vào đúng lúc đó, ở trên thuyền Muriel thật, con Maxie liếm bàn tay bà Marcia một cách thân thiện và ủy minh theo cách của chó săn sói. Bà Marcia rung mình vì nước dãi chó nên sự tập trung bị loãng đi mất một giây, và chiếc leiruM vụt biến mất trước đôi mắt hau háu của Thợ Săn. Và rồi con thuyền nhanh chóng xuất hiện trở lại, nhưng đã quá trễ, leiruM đã bị lộ.
Thợ Săn hét gầm lên điên tiết và dộng nắm đấm xuống hộp đạn. Rồi hắn lại thét rống lên lần nữa, lần này là do đau đớn. Hắn đã làm gãy đốt xương ngón tay thứ năm của mình. Ngón út. Và cái ngón tay đau quá. Xoa xoa bàn tay, Thợ Săn gầm lên quát lũ chèo thuyền. “Quay lại, đồ ngu!”
Chiếc thuyền đua dừng lại, các tay chèo hoán đổi chỗ ngồi và mệt nhọc chèo về hướng ngược lại. Thợ Săn giờ đây ngồi ở cuối thuyền. Đồ Đệ khoái chí, giờ đây nó được ở đằng mái.
Nhưng chiếc thuyền đua giờ đây không còn là cỗ máy hiệu quả như trước nữa và những tay chèo đang mệt đi nhanh chóng, dần dần không còn tử tế nổi trước những tràng chửi rủa mà cái kẻ giống như sát nhân điên rồ kia đang tuôn xối xả vào chúng. Nhịp chèo của chúng trở nên chệch choạc và chiếc thuyền đua đang di chuyển êm ru trở nên chòng chành, khó chịu.
Thợ săn ngồi gầm gừ ở cuối thuyền. Hắn biết rằng đây là lần thứ tư trong đêm Dấu vết bị nguội. Thợ Săn phát điên.
Đồ Đệ, tuy vậy, lại khoái chí thưởng thức cú trở đầu. Nó ngồi thấp xuống, vào cái chỗ bây giờ là mũi thuyền, và giống như chó Maxie, nó hỉnh cái mũi lên trời và sung sướng hít không khí ban đêm lùa qua mình. Nó cũng cảm thấy nhẹ cả người vì đã có thể thực hiện công việc của mình. Chủ Nhân nó hẳn sẽ tự hào. Nó tưởng tượng mình quay trở về, đến bên Chủ Nhân và thuật lại bằng cách nào mà nó dò ra phép Phản chiều xảo quyệt và cứu nguy cả một ngày trường. Có thể việc này sẽ làm Chủ Nhân nó thôi thất vọng vì sự thiếu tài pháp thuật của nó. Đồ Đệ nghĩ, nó đã cố, cố thật sự rồi, nhưng xem ra nó không bao giờ nắm bắt được pháp thuật. Cho dù đó là cái gì.

Chính Jenna là người trông thấy ánh đèn pha rọi hung hổ tiến đến từ một khúc ngoặt đằng xa.
“Chúng quay lại kìa!” Cô bé thét lên.
Bà Marcia giật thót mình làm mất hoàn toàn phép Phản chiều, và xa tít, nơi cảng biển, chiếc leiruM cùng thủy thủ đoàn của nó biến mất vĩnh viễn, khiến cho một người câu cả trên thành cảng choáng cả người.
“Chúng ta phải giấu con thuyền thôi,” Nicko nói, đứng phắt dậy, và chạy dọc theo bờ cỏ, theo sau là Jenna.
Silas xua con Maxie ra khỏi thuyền và bảo nó nắm xuống. Rồi ông giúp bà Marcia bước ra. Con Trai 412 khật khừ đi đằng sau bà.
Bà Marcia ngồi xuống bờ Rạch Nước Sâu đầy cỏ, nhất quyết giữ cho đôi giày da trăn đỏ tía của mình còn được khô đến chừng nào tốt chừng đấy. Tất cả những người còn lại, kể cả Con Trai 412 (trước sự ngạc nhiên của Jenna), đều lội xuống vũng nước lấp xấp và đẩy chiếc Muriel ra khỏi bờ cát để nó có thể trôi trở lại. Rồi Nicko nắm một sợi dây thừng và lôi chiếc Muriel dọc theo con rạch cho tới khi nó khuất vào một góc và không thể nhìn thấy được nếu đứng từ ngoài sông. Lúc này thủy triều đang xuống, và chiêc thuyền Muriel hạ thấp xuống dần trong rạch, cột buồm ngắn được hai bờ sông dóc lên che kín.
Tiếng Thợ Săn gào thét bọn chèo thyền trôi lan trên dòng sông, và bà Marcia nhô đầu lên khỏi bờ rạch để xem có chuyện gì xày ra. Bà chưa từng thấy cảnh tượng nào như thế này. Thợ săn đang đứng cheo leo ở cuối chiếc thuyền đua, điên dại khua khoắng một cánh tay lên không trung. Hắn không ngừng dội những tràng chửi rủa thậm tệ xuống những tay chèo – những kẻ giờ đây đã mất hết cảm giác về nhịp điệu và cứ thế để mặc chiếc thuyền đua đi xiêu vẹo, ngoằn ngoèo trên mặt nước.
“Mình không nên làm việc này,” bà Marcia lẩm bẩm. “Thật sự là không nên chút nào. Làm thế là nhỏ mọn và không biết khoan dung, lại hạ thấp quyền năng của pháp thuật, nhưng mình cóc cần.”
Jenna, Nicko, và Con Trai 412 phóng vù lên chỗ cao nhất của rạch để coi bà Marcia định làm gì. Chúng thấy, bà Marcia chỉ ngón tay về phía Thợ Săn miệng lầm bầm
“Lặn”
Chưa đầy một giây sau, Thợ Săn cảm thấy kỳ dị, như thể sắp sửa là một điều gì đó thật đần độn – mà đúng vậy. Vì lý do gì đó không thể hiểu nổi, hắn lại giơ hẳn hai cánh tay lên khỏi đầu và cẩn thận hướng hai bàn tay về phía mặt nước. Rồi từ từ nhúng đầu gối, hắn lao gọn ra khỏi chiếc thuyền đua, thực hiện một cú nhào lộn phức tạp trước khi lặn hoàn toàn xuống dòng nước lạnh giá.
Rất chần chừ, và chậm chạp một cách không cần thiết những tay chèo lái cho chiếc thuyền lùi lại và giúp Thợ Săn thở hồng hộc leo lại lên thuyền.
“Ngài không nên làm như vậy, thưa ngài” tay chèo Số Mười nói. “Rất không nên trong thời tiết như thế này.”
Thợ Săn không đáp lời. Hai hàm răng va vào nhau mạnh đến nỗi hắn không thể suy nghĩ được, huống hồ là nói. Bộ quần áo ướt rượt của hắn dính sát vào người, hắn run bần bật giữa luồng không khí ban đêm lạnh lẽo. Với dáng bộ sầu thảm, hắn dò la đầm lầy, nơi mà hắn nghĩ chắc chắn con mồi của mình ẩn núp nhưn lại không sao thấy được dấu vết gì. Là Thợ Săn dày dạn, hắn biết chỉ còn có cách lội bộ lên Đầm Cỏ Thô giữa đêm hôm khuya khoắt. Chẳng còn cách nào khác – Dấu vết đã tắt và phải quay trở về Lâu đài.
Chiếc thuyền đua bắt đầu cuộc hành trình dài, lạnh buốt trở về Lâu đài, trong khi Thợ Săn co ro ở đuôi thuyền, suýt xoa ngón tay bị gẫy xương và suy tính về những hệ lụy của cuộc Săn này. Và về thanh danh của hắn.
“Đáng đời.” bà Marcia làu bàu. “Tên choắt ghê rợn”
“Không được chuyên nghiệp hẳn,” một giọng nói quen thuộc vọng lên từ dưới đáy Rạch, “nhưng hoàn toàn có thể hiểu được, trò à. Vào thời trai trẻ, chắc hẳn ta cũng bị cám dỗ mà làm thế thôi.”
“Ngài Alther!” Bà Marcia sửng sốt, hơi đỏ mặt lên.

CHƯƠNG 15 : NỬA ĐÊM TRÊN BÃI

“Cụ Alther!” Jenna reo lên mừng rỡ. Cô bé trườn xuống bờ nuớc, ra ngòai gặp ngài Alther. Ngài đang đứng trên bãi, trông rất khó hiểu, nhìn chằm chằm vào chiếc cần câu cá mình đang cầm.
“Công chúa!” Ngài Alther vui sướng và ôm chầm lấy cô bé theo kiểu ma, kiểu luôn khiến Jenna cảm thấy như có một làn gió mát mùa hè thỏang qua mình. .
“Chà, chà” ngài Alther súyt xoa. “ Ta đã từng tới đây câu cá hồi còn nhỏ, và hình như ta cũng mang theo cái cần câu này. Ta cứ hy vọng có thể gặp mấy người ở đây”.
Jenna bật cười lên. Cô bé không thể tin nổi là cụ Alther lại có thời từng là một cậu bé.
“Cụ đi với chúng con chứ ạ, cụ Alther?” Cô bé hỏi.
“Xin lỗi, Công chúa. Ta không đi được. Cô biết những luật lệ Kiếp Ma chứ:
Ma chỉ có thể đặt chân đến nơi
Khi sống từng đuợc đặt chân đến.
Mà rủi quá, hồi bé ta không bao giờ đi xa hơn cái bãi cát này. Quá nhiều cá ngon để câu, cô thấy đấy. Nào,” ngài Alther đổi đề tài, “có phải ta trông thấy cái giỏ đi trại ở dưới đáy thuyền không vậy?
Nằm dưới một cuộn dây thừng ướt sũng là cái giỏ đi trại bà Sally Mullin đã chuẩn bị cho họ. Silas lôi mạnh cái giỏ ra.
“Ối, cái lưng tôi,” ông rên rỉ. “Bà ấy nhét cái gì trong này không biết nữa?”
Silas mở nắp giỏ ra.
“À, thảo nào” Ông thở dài “Đầy ứ bánh lúa mạch nướng. Chao, đem làm đá ném tốt đấy chứ, hả?”
“Ba” Jenna phản đối. “Đừng xấy vậy chứ. Mà tụi mình cũng thích bánh lúa mạch nướng nữa, đúng không, Nicko?”
Nicko nhăn mặt, nhưng Con Trai 412 trông thấy hy vọng. Đồ ăn. Nó đói ngấu nghiến rồi – nó không thể nhớ lần cuối cùng nó đã ăn thứ gì. À phải, nhớ rồi, một tô cháo lồn nhồn, lạnh ngắt trước lúc điểm danh 6 giờ sáng hôm đó. Lâu như đã hết một đời người vậy.
Silas nhấc ra những món khác được nén chặt bên dưới đống bánh lúa mạch nướng. Một hộp mồi lửa và bùi nhùi khô, một can thiếc đựng nước, một ít sô-cô-la, đường, sữa. Ông nhóm một đống lửa nhỏ và treo một cái can thiếc nước lên trên để đun sôi trong khi tất cả mọi người ngồi quây lại quanh ánh lửa bập bùng, vừa sưởi ấm đôi bàn tay tê cóng, vừa cắn miếng bánh lúa mạch nướng dày cui.
Ngay cả bà Marcia cũng bỏ qua cái thói hay dính răng của bánh lúa mạch nướng mà ăn gần hết một thanh.
Con trai thứ 412 nuối chửng nuối trạo phần bánh của mình và xơi sạch luôn tất cả những miếng thừa thẹo của ai đó bỏ lại. Xong, nó nằm ngửa ra bãi cát ướt và tự hỏi không biết mình có bao giờ nhúc nhích được nữa hay không. Nó cảm thấy như ai đó đã đổ bê-tông vào bụng mình.
Jenna đút tay vào túi áo và lấy ra con Petroc Trelawney. Chú chàng ngồi im lìm trong bàn tay cô bé, Jenna dịu dàng xoa lên nó, Petroc Trelawney thò ra bốn các cẳng tí xíu, lều nghều và quơ quào bất lực trong không khí.Nó nằm ngửa như một con bọ cánh cứng bị mắc kẹt.
“Úi, ngược rồi”, Jenna cười khúc khích. Cô bé lật chú lại đúng chiều, và Petroc Trelawney mở mắt ra, chớp chớp.
Jenna đặt một miếng vụn bánh lúa mạch nướng lên ngón tay cái của mình và chìa ra cho hòn đá con.
Petroc Trelawney chớp mắt lần nữa, suy nghĩ một chút về bánh lúa mạch nướng, rồi lần nhần mẩu vụn bánh. Jenna thích thú vô cùng.
“Nó ăn bành kìa!” Cô bé la ầm ĩ.
“Ăn chứ sao không,” Nicko bảo. “Đá ăn bánh đá. Tuyệt!”
Nhưng ngay cả Petroc Trelawney cũng không chén được hơn một mẩu lớn. Nó dòm dòm xung quanh thêm vài phút nữa sau đó nhắm mắt lại và trở về giấc ngủ trong lòng bàn tay ấm áp của Jenna.
Không lâu sau nước can treo trên ngọn lửa đã sôi.Silas thả những vuông sô-cô-la vào đó và thêm sữa. Ông trộn chúng như cái cách ông vẫn thích, rồi khi cái can bắt đầu sủi tăm trở lại, ông cho đường vào và khuấy tiếp.
“Sô-cô-la nóng tuyệt nhất trần đời,”Nicko tuyên bố.
Không ai phản đối khi cái can được chuyền quanh và chẳng mấy chốc đã hết sạch.
Trong lúc mọi người ăn, ngài Alther bận trí dợt lại mấy chiêu quăng cần câu, và khi thấy họ đã ăn xong, ngài liền bay vọt về phía ngọn lửa. Trông ngài có vẻ nghiêm trọng.
“Có chuyện xảy ra sau khi các bạn đi khỏi,” ngài lẳng lặng nói.
Silas thấy dạ dày mình thót mạnh và đó không phải là do bánh lúa mạch nướng. Đó là nỗi khiếp sợ.
“Chuyện gì vậy, thưa ngài Alther?” Silas hỏi dồn, kinh hãi chắc mẩm mình sắp phải nghe tin Sarah và các con trai mình bị bắt.
Ngài Alther biết Silas đang nghĩ gì.
“Không phải chuyện đó, Silas,” ngài bảo “Sarah và bọn trẻ vẫn ổn. Nhưng tình hình rất tệ. DomDaniel đã trở lại lâu đài.”
“Cái gì?” Bà Marcia sững người. “Hắn không thể trở lại. Tôi là Pháp sư Tối thượng – tôi có bùa hộ mạng. Và khi tôi đi, tháp đặc kín những pháp sư là pháp sư – Pháp thuật trong tháp đủ để giữ cho tên già đó bị chôn vùi ở Vùng Đất Hoang, chỗ của hắn. Ngài có chắc là hắn đã quay lại không, thưa ngài Alther, và đó không phải là trò đùa mà gã Bảo hộ Toàn quyền – cái con chuột kinh tởm đó – tung ra trong lúc tôi đi vắng chớ?”
“Không đùa đâu, Marcia à,” ngài Alther nói. “Chính mắt ta trông thấy hắn mà. Ngay khi thuyền Muriel quẹo khuất sau vách đá Quạ đen, thì hắn Hiện hình trong sân Tháp Pháp sư. Lúc ấy tất cả nứt nẻ ra vì Hắc thuật. Bốc mùi kinh khủng. Các pháp sư đến phát điên phát dại, chạy cuống quít chổ này chổ kia, tứ tan, như một đàn kiến bị đạp lên ổ vậy.”
“Thật ô nhục. Họ nghĩ gì vậy? Tôi không hiểu nổi đấy, giá trị của Pháp sư Thượng đẳng ngày nay chỉ biết hoảng sợ sao,” bà Marcia nói, quẳng ánh nhìn về phía Silas “Thế còn Endor đâu rồi. Bà ấy là người thay quyền tôi - ngài không nói là bà ấy cũng sợ chết khiếp đấy chứ”
“Không. Không hề. Bà ấy xông ra và đối mặt với hắn. Bà ấy giăng một Tấm Chắn khắp các cửa sổ dẫn lên tháp”
“Hờ, lạy trời. Tháp vẫn an toàn,” Bà Marcia thở phào nhẹ nhõm.
“Không đâu, Marcia. DomDaniel quật ngã Endor bằng một đòn Sét đánh. Bà ấy chết rồi.” Ngài Alther thắt một mối gút phức tạp lên sợi dây câu của mình.
“Ta xin lỗi,” ngài nói.
“Chết,” bà Marcia lẩm bẩm.
“Sau đó hắn ếm bùa Dời các pháp sư đi”
“Tất cả?” Đi đâu?”
“Tất cả họ bị bắn về phía Vùng Đất Hoang – họ không thể làm gì được. Ta nghĩ hắn đã nhốt họ vào một trong những Hang Chuột của hắn ở đó”
“Ôi, ngài Alther”
“Tiếp theo gã Bảo hộ Toàn quyền – cái tên quắt queo kinh khủng đó – cùng đám lâu la của hắn kéo tới, quỳ lạy thì thụp và đúng là cái rỏ mũi dãi cùng khắp thân mình Chủ Nhân gã. Kể tới ta biết là hắn đã hộ tống DomDaniel vào Tháp pháp sư và lên… è.. lên… à, các phòng của cô, Marcia à.”
“Phòng tôi? DomDaniel vào các phòng của tôi?”
“Ừ, cô sẽ hài lòng nếu biết là lên tới nơi thì hắn cũng chẳng còn tâm trí đâu mà chiêm ngưỡng mấy cái phòng, vì cả đám bọn chúng đã phải leo bộ lên. Pháp thuật còn lại không đủ để giữ cho thang máy, hay bất kỳ thứ gì khác trong tháp hoạt động.”
Bà Marcia lắc đầu vẻ không tin nổi.
“Tôi không bao giờ nghĩ DomDaniel có thể làm như vậy. Không bao giờ.”
“Ta cũng không bao giờ nghĩ thế,” ngài Alther đồng tình.
“Tôi vẫn nghĩ rằng,” bà Marcia nói, “chỉ cần đám pháp sư chúng ta có thể cầm cự tới khi Công chúa đủ lớn để đội vương miện, thì tất cả chúng ta sẽ ổn. Rồi chúng ta sẽ đuổi tất cả lũ Bảo hộ, lũ Thiếu sinh quân, lũ Hắc ám gớm guốc đang tàn phá Lâu đài và làm cho cuộc sống dân chúng khốn khổ kia đi.”
“Ta cũng nghĩ thế,” ngài Alther nói. “Nhưng rồi ta đi theo DomDaniel lên cầu thang.Lúc đó hắn đang lảm nhảm lên Bảo hộ Toàn quyền về việc hắn không thể tin nổi hắn lại hên đến thế - không chỉ là việc cô rời khỏi Lâu đài, mà cô còn mang theo mình một chướng ngại vật cho sự trở về của hắn.”
“Chướng ngại vật?”
“Jenna”
Jenna trố mắt nhìn ngài Alther, vẻ hoang mang.
“Cháu? Cháu là chướng ngại vật? Tại sao?”
Ngài Alther ngó chăm chăm vào đống lửa, đắm chìm trong suy tư.
“Hình như, thưa Công chúa, bằng cách nào đó mà cô đang ngăn cản tên thầy đồng gọi hồn ghê tởm đó trở lại Lâu đài. Chỉ cần cô ở đó. Và rất giống như mẹ của cô cũng đã như thế. Ta đã luôn luôn tự hỏi tại sao hắn lại sai Ám Sát binh tới giết Nữ hoàng chứ không phải giết ta”
Jenna rùng mình. Bất thình lình cô bé cảm thấy sợ hãi. Silas vòng tay ôm lấy cô.

Bạn đã đọc hết các phần đã được đăng tải.

⏰ Cập nhật Lần cuối: Nov 06, 2011 ⏰

Thêm truyện này vào Thư viện của bạn để nhận thông báo chương mới!

Pháp thuật Septimus Heap post by minhvietsubinNơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ