mê tông chi quốc tập 1

994 6 4
                                    

Đây là q1 và là tiếp theo nếu muốn đọc từ đầu tham khảo wattcode: 7823900 và 20577985

Hồi thứ nhất   TÒA THÀNH BỐN TRIỆU BẢO THÁP     “Vận may” - cái thứ ấy, có thể là bà mẹ đẻ đối với người này, nhưng lại là mụ dì ghẻ đối với kẻ khác. Tư Mã Khôi cảm thấy mấy người của hội anh chắc đang được dì ghẻ nuôi dưỡng, bởi họ rơi vào nơi sâu nhất dưới đáy sơn cốc khổng lồ của núi Dã Nhân cùng với loài thực vật dạng kén. Địa hình nơi này rất đặc biệt, không biết bao nhiêu năm trước đã từng trải quả những kiếp nạn long trời lở đất nào, mà khiến mạch nước lún sâu dường vậy, lòng núi dần dần trống hoác, từ đó cả cánh rừng rậm nguyên sinh rộng lớn bị thụt xuống đáy động. Lòng khe núi ngay sau đó liền phát triển loại thực vật bào tử giống hình chiếc ô, che phủ hoàn toàn cánh rừng rậm dưới lòng đất, ngày dài tháng rộng, chẳng ngờ lại tích bùn thành đầm. Huyệt động thâm u sâu hơn hai ngàn mét theo chiều dựng đứng này, mãi mãi chẳng bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời, bởi vậy tốc độ phân hủy mục nát của cây cối trongkhông gian ẩm ướt khép kín đã diễn ra rất chậm chạp, màu sắc nhợt nhạt, đập vào mắt chỉ thấy toàn như gấm dệt đen sì sì, nếu như không hề xảy ra biến cố gì, thì chỉ sợ thêm vài chục ngàn năm nữa, hình hài của nó vẫn giữ nguyên như cũ. Mãi đến khi quả bom địa chấn trong chiếc tiêm kích vận tải phát nổ, chất độc màu da cam khuếch tán ra khắp nơi, hủy hoại lớp phủ thực vật dày đặc trong không gian kín mít dưới đáy cốc, rồi đầm lầy theo đó sụt lở xuống dưới, thì khu vực cấm địa này bởi vậy mới bị lộ ra ngoài. Do điểm phát nổ không xảy ra ở nơi trung tâm sơn cốc, nên lớp phủ thực vật ở nơi xa nhất tuy cũng tận số diệt vong, nhưng mức độ hủy hoại không nghiêm trọng lắm, vẫn còn vô số những chiếc rễ đen sì, to lừng lững như cột đình đâm rủ xuống lòng đất. Bốn kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm đành lần mò trong đám tàn tích thực vật dưới lòng đất di chuyển dần xuống, hi vọng tìm thấy khu vực có thể bò ngược lên trên. Ai ngờ, trong cánh rừng sâu dưới lòng đất thâm u, lặng ngắt một màu này lại ẩn giấu bức tường thành xếp bằng vàng. Thân tường cao vút, dựng đứng bị che phủ bởi bùn đất và rễ khô, gạt bỏ lớp bụi đất che phủ bên ngoài, liền lộ ra ánh vàng kim chói mắt. Bóng tối dày đặc và màn sương mù mỏng tang bủa vây tứ bề, khiến mọi người không thể nhìn rõ quy mô của bức tường vàng, chỉ thấy phù điêu khắc trên thỏi vàng trùng trùng điệp điệp, vô cùng vô tận, tuy dày đặc nhưng vẫn có thứ bậc, trình tự tinh ảo tuyệt luân, kỹ thuật chế tác hoàn mỹnhư thể không phải vật chốn trần gian. Hội Tư Mã Khôi giơ cao đèn chiếu halogen quan sát một hồi lâu, người nào người nấy đều tròn mắt kinh ngạc, chỉ thấy mỗi một thỏi vàng trước mắt đều được đúc thành một tầng khung tháp cổ khắc hình khuôn mặt người, bảy thỏi hợp thành một thể, quấn quanh chân tháp là mãng xà, hình thái mỗi con một khác, thiên biến vạn hóa, chẳng bức nào giống bức nào. Các bức phù điêu trong thân tháp lại vẽ trời đất bao la mênh mông, bên trên là trăng sao nhật nguyệt, bên dưới là sinh linh muông thú, tiên nữ phiêu bồng, mãng xà dữ tợn, dũng sĩ đầu người mình voi, thậm chí cả cuộc chiến tranh huy hoàng giáo vàng ngựa sắt và cả chư vị thần phật đang cúi nhìn chúng sinh chen chúc dưới phàm trần. Có thể nói, thiên địa vạn vật không gì không bao hàm trong đó. Miến Điện chịu sự ảnh hưởng rất sâu sắc từ nền văn hóa Ấn Độ cổ, hàng ngàn năm nay, Phật pháp cực thịnh chẳng ngày suy vong, nơi nào cũng có đền đài miếu mạo nổi tiếng, nhưng thần phật trong những bức phù điêu vàng này, hình thái lại vô cùng đặc biệt, nhuốm đầy màu sắc tôn giáo ly kỳ nơi đất khách, thậm chí nó khác biệt rất lớn với hình tượng thần phật thường thấy ở bất kỳ khu vực nào trên thế giới. Dường như từ bản thân những bức vẽ, người ta có thể nhìn thấy bóng dáng thần bí đã sớm biến mất của một vương triều cổ đại. Bốn người nằm mơ cũng không thể ngờ tới trong cánh rừng già núi sâu Bắc Miến, lại có nhiều vàng thỏi đến vậy. Họ lần lượt gỡ bỏ lá cành mục nát hai bên ra, những thỏi vàngkhảm đầy đá quý và phù điêu lần lượt hiện ra trước mắt. Không biết bức tường thành này rốt cục có điểm tận cùng hay không, bởi càng nhìn càng hoa mắt chóng mặt, trong khi ánh sáng của đèn chiếu chỉ soi rõ được khoảng cách trong vòng mười bước chân. Cảm giác này chẳng khác nào thầy bói mù xem voi, gần đó lại không hề có vật tham chiếu, nên hoàn toàn không thể phán đoán tình hình thực tế. Mọi người không ngớt bàng hoàng, kinh ngạc, chỉ thấy một cảm giác chật chội, bí bách rất mãnh liệt chợt ùa giội vào mặt. Bức tường thành cao vút đúc đầy phù điêu vàng giống như một vị thần Kim Cương lạnh lùng, tàn khốc, nó im lặng điềm nhiên chấp nhận sự kinh sợ và kính nể của kẻ phàm trần. Hội Tư Mã Khôi nhìn hồi lâu, trong lòng không tránh khỏi cảm giác rờn rợn, xương sống gai lạnh. Sức mạnh của tôn giáo có thể khiến con người điên cuồng, rồ dại, chắc cũng chỉ có nguyên nhân này, mới tạo ra được một kỳ tích hiển hách và rạng rỡ dường vậy. Tận mắt chứng kiến sự tồn tại của những bức phù điêu bằng vàng, lập tức sẽ khiến đầu óc con người bật lên một cụm từ xuất thân từ Phật pháp: bất khả tư nghị, ý nói sự thần thông và trí tuệ của Phật tổ cao siêu huyền diệu đến mức người phàm trần không thể nào suy nghĩ bàn luận cho thấu đáo được. Tư Mã Khôi vừa nhìn vừa đánh trống ngực vì quy mô của bức tường thành rộng lớn khó lường, nó ngang nhiên ngủ yên dưới lòng đất, dường như không thể nào đi vòng qua nổi. Chỉ có trời mới biết người ta đã dùng bao nhiêu thỏi vàng để tạo ra nó. Móng tường nằm sâu dưới mặt đất một đoạn khá lớn, phần còn lại đều ẩn mình trong bóng tối, những gì nhìnthấy trước mắt chẳng qua chỉ là một khúc mà thôi. Thực không thể tưởng tượng được cổ nhân hàng ngàn năm trước rốt cục đã xây dựng nó bằng cách nào. Sơn cốc núi Dã Nhân bị sương mù trầm tích không tan bủa vây, nuốt chửng vô số sinh mạng, vì sao lại vùi chôn một lượng vàng nhiều đến thế? Chúng do triều đại nào để lại? Và những thỏi vàng tạc kín phù điêu ăn khớp hoàn toàn với nhau, tạo nên bức tường thành giống như một công trình kiến trúc này, rốt cục có hình dạng và quy mô như thế nào? Trong khắp năm châu bốn bể, những điều lạ lùng kỳ quái chưa tận mắt trông thấy, chưa tận tai nghe thấy, không biết còn bao nhiêu nữa. Tuy hội ba người Tư Mã Khôi, La Đại Hải và Tuyệt, lưu lạc ở nơi tha hương rừng già núi thẳm đã không ít năm, nhưng những hiểu biết về lịch sử và văn hóa của Miến Điện cũng chỉ có hạn, nên chẳng ai nói được nguồn gốc, lai lịch của nó. Tuyệt nhìn đến nỗi da nổi cả gai ốc, cô quay sang nói với Tư Mã Khôi: “Những bức phù điêu dát vàng này, dường như có điểm gì không giống lắm với những vị bồ tát thường thấy trong đền chùa ở Miến Điện, chúng cứ cổ quái thế nào ấy.” Tư Mã Khôi gật đầu: “Tôi từng nghe nói Phật tổ Thích Ca Mâu Ni được hạ giáng trong một gia đình hoàng tộc, là con vua Tịnh Phạn nước Ca tì la vệ[27]. Khi mới sinh, ngài đứng trên bông sen vàng, hào quang trí tuệ tỏa sáng khắp mười phương thế giới, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, miệng nói: ‘Trên trời dưới đất chỉ mình ta vĩ đại’. Thân mình ngài màuvàng kim, cao một trượng sáu, biến hóa thần thông, không gì không hiểu, không gì không thông, phổ độ chúng sinh thiên hạ, tướng ngọc trang nghiêm, diệu pháp vô biên, được người đời mệnh danh là Thiên Nhân Sư. Nhưng thần phật trên những bức phù điêu này đúng là có chút dữ tợn quái dị, tôi cảm thấy mấy hình người ngợm này nhìn chẳng phải loại lương thiện gì, chỗ nào cũng bốc mùi tà khí…” Hải ngọng kinh ngạc nhìn khối vàng khổng lồ, không khỏi nảy sinh cảm giác thám phục, anh lấy tay vỗ bồm bộp vào mặt của một vị thần trên bức phù điêu, miệng nhắc nhở Tư Mã Khôi: “Thằng ôn nhà cậu mồm mép ý tứ một chút đi, đừng có thất đức như vậy được không hả? Dù sao thì cả đời tớ, đây là lần đầu cảm thấy vàng nó lại thường thế này, không ngờ có thể dùng làm vật liệu xây dựng, chẳng khác gì đất đá gạch ngói. Nếu chuyển số vàng này ra ngoài núi, đổi lấy vũ khí, không biết có thể trang bị cho bao nhiêu đội quân nhỉ? Đừng nói đến việc xới đất đánh chiếm lại Yangon[28] chỉ là chuyện nhỏ, mà nếu biết dùng tiết kiệm một tí, thì ngay cả phát động chiến tranh thế giới lần thứ ba chắc cũng chẳng phải vấn đề gì to tát lắm. Hải ngọng tớ bình sinh chỉ có một mong muốn, đó là trở thành bộ trưởng Bộ quốc phòng. Lúc lựa chọn mua vũ khí, tớ nhất quyết không thèm mua đồ của bọn khọm Mỹ, đồ Mỹ sản xuất tuy hiện đại thật, nhưng tần suất xảy ra sự cố rất lớn. Đồ của Tiệp Khắc, Canada và Liên Xô chế tạo vẫn da thật thịt thật hơn, cho dù dính mưa lớn hay ngâm dưới sông sâu đầm lầy cả ngày, nhưng chỉ vác lên một cái là vẫn bắn bòm bòm giòn tan như thường…”Tuyệt khuyên La Đại Hải đừng có nổi lòng tham cạo vàng trước mặt Phật mà chuốc họa vào thân, huống hồ từ lúc mọi người chạy trốn khỏi hiện trường quả bom địa chấn phát nổ, họ đều bị chất độc màu da cam gây bỏng. Tuy rằng không biết trong trái bom đó cụ thể chứa loại chất độc hóa học gì, nhưng nhìn mức độ ô nhiễm và hủy hoại mà nó gây ra cho hệ thực vật dưới lòng đất, cũng có thể lường được cuối cùng bọn họ cũng chẳng thể gặp được kết cục gì tốt đẹp. Giờ đây, họ vừa thoát kiếp nạn để hồi sinh, đã là vạn hạnh trong mọi bất hạnh rồi, điều nên nghĩ lúc này là mau chóng tìm cách thoát khỏi núi Dã Nhân mà trở về Trung Quốc trước khi đại hạn kịp xảy ra, làm sao còn tâm tư mà động lòng tham nữa? Tư Mã Khôi nói: “Tuyệt nói rất phải! Có điều, vàng là thứ có thể khiến người ta nhìn mà động lòng, ai ai cũng yêu thích, không chỉ mỗi người Trung Quốc chúng ta thích đâu, mà nhân dân trên toàn thế giới đều thích cả, vì nó tượng trưng cho hòa bình. Tôi thấy nếu như chúng ta vì nền hòa bình của toàn nhân loại, mà khuân hết số vàng bạc châu báu ở đây ra ngoài, cho dù Phật tổ có biết, thì người cũng cảm thấy hãnh diện mà thôi…” Tư Mã Khôi vừa nói chuyện với Tuyệt và La Đại Hải vừa đưa mắt liếc trộm Ngọc Phi Yến, phát hiện thần sắc cô ả rất bất an, thậm chí còn có vài phần khiếp sợ, không biết là vì nguyên do gì. Từng có một vĩ nhân đã nói rất hay thế này: “Một tên trộm mộ không muốn phát tài, thì không thể coi là một tên trộm mộ đạt tiêu chuẩn”. Tư Mã Khôi cảm thấy việc này hết sức khác thường, liền hỏi Ngọc Phi Yến xem cô nàng đã phát hiện ra chuyện gì.Ngọc Phi Yến rốt cục vẫn là một nhân vật xuất chúng hàng đầu trong giới trộm mộ, nhìn thấy trên những bức phù điêu bằng vàng có rất nhiều tháp cổ, trong đầu đại thể đã phác họa ra nét khái quát của sự việc, chỉ có điều biết chừng ấy cũng mới chỉ như ếch ngồi đáy giếng mà chê trời bé như chiếc vung, tức thời không thể nói chính xác hoàn toàn được, nên vẫn chưa dám khẳng định chắc chắn. Thấy Tư Mã Khôi hỏi, cô ta mới định thần lại, trả lời: “Tôi thấy màu sắc của mấy thỏi vàng kia có gì đó hơi kỳ quái, không giống với vàng thật, nhưng rốt cục nó là loại vật chất gì, hiện thời tôi cũng chưa phân biệt nổi. Ngoài ra dãy phù điêu đồ sộ này không phải thành trì, cũng chẳng phải đền chùa miếu mạo, chỉ sợ nó chẳng phải bất kỳ công trình kiến trúc nào mà chúng ta có thể tưởng tượng, hơn nữa đáng lẽ nó không thể xuất hiện ở núi Dã Nhân mới phải…” Mọi người nghe xong càng cảm thấy mơ hồ không hiểu, tuy rằng họ quanh năm chiến đấu ở khu vực vùng núi Bắc Miến, nhưng chưa hề nghe qua chuyện này, câu hỏi chứa đầy một bụng mà chẳng biết nên bắt đầu hỏi từ đâu. Thần sắc Ngọc Phi Yến rất nghiêm trọng, cô nói: “Rất có khả năng đây chính là tòa thành Nhện Vàng do quốc vương Anagaya của Chăm Pa xây dựng, còn được gọi là tòa thành bốn triệu bảo tháp.” Sau đó cô liền kể tóm tắt với mọi người đầu đuôi sự việc, thì ra cái được gọi là tòa thành Nhện Vàng là một truyền thuyết cổ xưa được lưu truyền từ hàng ngàn năm. Trước đây, Chăm Pa từng tồn tại một vương triều vô cùng cường thịnh và hiển hách,lịch sử gọi là vương triều Bagan, phạm vi lãnh thổ của nó vượt sang cả phần đất Việt Nam và phía bắc của Lào, tín ngưỡng khởi nguồn từ thể hệ tôn giáo thần thú Vệ Đà (Veda) của Ấn Độ giáo cổ đại. Họ chuyên sản xuất vàng, ngọc đẹp, ngà voi, đá quý, và đó là một vương quốc hùng mạnh, thịnh vượng nhất trong khu vực, bởi thế chư quốc xung quanh đều nhăm nhe nhòm ngó, xâm lăng nhiều lần. Thế nhưng người Chăm Pa cổ đại phía bắc đã đánh cản được các vương triều đến từ Trung Nguyên, phía nam lại dẹp tan các vương triều của Việt Nam, Lào... trước sau không bao giờ mất thế thượng phong; mãi cho đến khi Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt phái đại quân chinh phạt, mới khiến đất nước Chăm Pa cổ dần dần trở nên suy yếu, hậu duệ của họ đến nay vẫn còn một bộ phận ở lại các nước Lào và Việt Nam. Thành trì của người Chăm Pa cổ đại và lăng tẩm của các vương hầu quý tộc, đại đa số đều bị khói lửa chiến tranh hủy hoại, số ít những di tích hoang tàn còn lại, cũng sớm trở thành sào huyệt cho rắn chuột dơi cú ẩn mình. Ở Việt Nam đến nay vẫn lưu truyền một truyền thuyết liên quan đến tòa thành Nhện Vàng của vương triều Chăm Pa. Giờ đây, tuy các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra những di tích lịch sử kỳ vĩ như Angkor Wat ở Campuchia, Buddha Bà La Môn ở Indonexia v.v... nhưng tất cả đều kém xa, không thể so sánh với tòa thành này, chỉ có điều trước sau không thể tìm đủ chứng cứ để chứng minh nó thật sự tồn tại. Tương truyền ở phương Tây cổ đại có tháp Thông Thiên do vua Babylon xây dựng, còn phương Đông có tòa thành Nhện Vàng đối sánh. Dưới thời kỳ vua Anagaya cai trị, ông ta đã cho đúc một tòa thành trì bằng vàng, khảm nạm các loại đá quý và ngọc phỉ thúy, cácbức phù điêu trên tòa thành có vô số hình bảo tháp, bởi vậy nó mới mang tên này. Nó lộng lẫy rực rỡ tuyệt đỉnh, dường như có thể tranh ánh hào quang cùng nhật nguyệt. Có điều, công trình kiến trúc này tuy gọi là thành mà thực ra không phải thành, bởi chỉ do quy mô của nó quá lớn, mà theo quy định của người xưa: phạm vi xây dựng vượt quá mười dặm, được gọi là thành, nên mới có chữ “thành” ấy, còn về bên trong chứa đựng những gì, hoặc giả nói trong thành có tồn tại cung điện lâu đài gì hay không thì từ trước đến nay chưa ai chứng thực được. Người Chăm Pa cổ rút kiệt ngân khố quốc gia đổ dồn vào tòa thành Nhện Vàng, và từ đó trở đi đất nước cứ dần lụi bại, không thể chấn hưng, rồi cuối cùng mang đến vận đen suy bại diệt vong cho hậu thế. Các vương triều từng xâm lăng chinh phục Chăm Pa cổ, lại đều không thể phát hiện tung tích tòa thành này, cho nên nhiều người cho rằng: “Giai đoạn lịch sử thần thoại ly kỳ, cùng tòa thành Nhện Vàng bí ẩn khó lường này, có khả năng chỉ là một truyền thuyết hoang tưởng mà thôi, chứ chưa chắc đã thực sự tồn tại trên đời”. Mãi cho đến khi đại chiến thế giới thứ hai bùng nổ, kẻ xâm lược đã cướp bóc được một lượng lớn văn vật cổ từ Việt Nam và Lào, trong đó có cả mấy bức bích họa của nước Chăm Pa còn lưu truyền lại, nội dung bức vẽ miêu tả hình của bốn triệu tòa bảo tháp, và điều này đã cung cấp cho những nhà nghiên cứu hậu thế rất nhiều thông tin quý giá. Từ đó, người ta mới phát hiện ra tên gọi tòa thành bốn triệu bảo tháp, kỳ thực không được chuẩn xác lắm, bởi vì con số bốn triệu chỉ là con số giả tưởng, còn bảo tháp trong bức phù điêuvàng rốt cục có bao nhiêu, thì chẳng ai có thể nói chính xác. Ngoài ra, nó cũng không phải một tòa thành trì, càng chẳng phải công trình kiến trúc mang ý nghĩa thông thường như miếu thần, tường thành hay lăng tẩm. Từ màu sắc mấy bức bích họa người ta có thể thấy hình thù kỳ quái của nó, đại thể đó là một kiến trúc hình bánh răng do nhiều thỏi vàng xếp khít vào nhau, phần giữa hình bầu dục, phía ngoài có tám chân dài ngắn khác nhau vươn ra tứ phía, cấu tạo chỉnh thể tương tự với hình dáng một con nhện. Nhận thức của các học giả cận đại về nó, phần lớn đều dựa vào bình diện bức bích họa và tài liệu cổ ghi chép, ngoài những thứ đó ra, chẳng còn khảo chứng nào khác, bởi vậy người phương Tây đều gọi nó là tòa thành Nhện Vàng. Họ cho rằng, đây chỉ là một phù hiệu hoặc tô tem cổ của vương triều Chăm Pa, chứ chưa hẳn là một vật thể có thật. Cho dù tòa thành Nhện Vàng thực sự tồn tại trên đời, thì cũng phải nằm trong lãnh thổ phía bắc Việt Nam hoặc Lào mới đúng. Ngọc Phi Yến lúc này tận mắt nhìn thấy tháp cổ trùng trùng điệp điệp trên các bức phù điêu, mới biết đến tám chín phần mười, đây chính là tòa thành bốn triệu bảo tháp của vua Chăm Pa, không ngờ nó lại bị vùi chôn dưới sơn cốc khổng lồ của núi Dã Nhân Bắc Miến, nên chẳng trách từ trước đến nay người ta không thể tìm thấy tung tích của nó. Nhận thức của thế giới đối với vật thể thần bí như tòa thành Nhện Vàng này, từ trướcnay vẫn vô cùng có hạn. Chỉ biết tòa thành bốn triệu bảo tháp đã dùng vô số thỏi vàng đúc thành phù điêu xếp chồng lên nhau mà thôi. Chưa ai giải thích được vì sao người cổ xưa lại muốn xây dựng nó. Ngoài ra, thần thú Vệ Đà mà vương triều Chăm Pa cổ thờ phụng lại chẳng hề có thân thể thực, nhưng lại có vô số hình thể tượng trưng rất kỳ dị quái đản, mà mãng xà và tháp cổ chính là tượng trưng đáng sợ nhất, bởi nó dự báo sự kết thúc và cái chết. Ngọc Phi Yến cảm thấy trên những bức phù điêu vàng kia lờ mờ tỏa ra mùi tử khí rất nặng nề. Chỉ có ma quỷ mới biết vì sao vua Anagaya lại cho xây dựng con quái vật ấy, hơn nữa Nấm mồ xanh lại bất chấp mọi giá để đi tìm vật này. Lẽ nào tất cả chỉ vì một mục đích đơn giản là vàng thôi sao? Phải chăng trong tòa thành bốn triệu tòa bảo tháp còn ẩn chứa những bí mật nào khác? Cô nói với mọi người: “Nếu như chúng ta còn muốn giữ mạng sống, thì phải rời khỏi nơi đây càng xa càng tốt...” Giữa lúc cô đang nói, thì bỗng nghe thấy ở nơi sâu hút trong bóng tối truyền lại từng chuỗi âm thanh của cành khô đang di chuyển cọ xát, nghe “ken két”, lúc đầu còn cách quãng, yếu ớt, càng về sau càng gấp gáp và rõ ràng hơn, âm thanh nghe đau buốt đến tận óc.Hồi thứ hai   SÓNG ĐIỆN TRONG ĐỘNG TỐI     Hội Tư Mã Khôi nghe Ngọc Phi Yến nhắc đến truyền thuyết vua Anagaya nước Chăm Pa xây dựng tòa thành Nhện Vàng, ai nấy đều cảm thấy vô cùng kinh ngạc. Điều khiến họ kinh ngạc là từ khi khai thiên lập địa đến nay, chưa bao giờ nghe nói trên thế giới lại có vật nào kỳ dị như vậy, kỳ dị ở chỗ thời xưa lấy đâu ra nhiều vàng đến thế, hơn nữa phần bên trong của những thỏi vàng đúc phù điêu lại có thể chồng xếp hoàn toàn ăn khớp với nhau, rung lắc thế nào cũng không đổ, mà ngay cả khi núi bị sụt lở xuống đáy động, nó cũng chẳng hề nứt vỡ. Đừng nói hơn một ngàn năm về trước, mà cho dù là người hiện đại, cũng không chắc đã có được công nghệ đúc tạo tuyệt vời như có phép thần này. Mọi người tuy trong lòng đều thầm thán phục, nhưng chẳng ai còn lòng dạ để đào sâu tìm hiểu về nó. Lúc này thân họ vẫn đang nằm trong vòng nguy hiểm, mà trước tiên tìm đường thoát ra khỏi núi mới là việc quan trọng nhất, bởi thế họ cũng chỉ thuận miệng bàn bạc mấy câu mà thôi. Nào ngờ lời của Ngọc Phi Yến còn chưa dứt, thì lại nghe từ nơi caotruyền đến những âm thanh quái dị, nghe “ken két ken két”. Ban đầu, mọi người còn cho rằng lúc bom địa chấn phát nổ, màng nhĩ tai bị sóng địa chấn dội tới làm tổn thương, nên mới nảy sinh ảo giác. Nhưng liền sau đó cả hội thấy hình như không đúng, tai ù cũng không hề có những động tĩnh như vậy, lại phát hiện âm thanh cành khô di chuyển phát ra ở phía trên đỉnh đầu, thế là mọi người liền vội xách đèn chiếu halogen lên định xem rõ rốt cục đang xảy ra điều gì bất thường. Thế nhưng ở dưới đáy vực sâu hút này, do chịu ảnh hưởng của môi trường, nên ắc quy tiêu hao rất mau, ánh sáng nhợt nhạt tỏa ra hầu như chẳng có chút tác dụng nào, đến đâu cũng đều là một dải đen sì sì, chẳng nhìn thấy gì hết. Mọi người nghe tiếng động càng lúc càng dồn dập, dường như có rất nhiều cây cổ thụ ngàn năm đang giãy giụa rạch đất, làm xuất hiện âm thanh the thé rất chói tai, khiến người ta cảm thấy dường như có luồng điện xẹt qua da đầu, cơ thể tê giật hết cơn này đến cơn khác. Tư Mã Khôi nhớ lại lúc chiếc Rắn đen II bị tấn công trong đám sương mù, khi ấy cũng phát ra kiểu âm thanh này. Thông tin mà Wilson - thành viên đội thám hiểm để lại trước khi chết, cũng nói là trong đám sương mù tồn tại một “vật thể sống” rất to lớn và đáng sợ, nhưng màn sương bí ẩn trong sơn cốc đều bị mưa lớn trấn áp, nên khi xuống đầm lầy dưới lòng đất đội thám hiểm mới không gặp tình huống gì đặc biệt. Lúc đó anh suy đoán, nguồn gốc của sương mù rất có khả năng do lớp phủ thực vật trong không gian khép kín sinhra, mãi sau này chất độc màu da cam chứa trong quả bom địa chấn mới phá hủy triệt để loài thực vật bào tử, nên cứ nghĩ từ nay mọi người không còn chịu sự uy hiếp của đám sương mù giết người nữa, vậy thì sao tình huống này lại lần nữa xuất hiện ở đây? Lẽ nào nơi sâu dưới sơn cốc lại đang bắt đầu nổi sương mù? Khi tìm thấy chiếc máy bay tiêm kích vận tải, tuy Tư Mã Khôi đã từng tiếp xúc ngắn ngủi với sương khí tàn sót trong khoang máy bay, nhưng bản thân anh cũng không thể nói rõ trong đám sương ấy rốt cục có thứ gì, mà chỉ có một điểm có thể đoán định chắc chắn là: bất kỳ người nào đi vào sương mù, đều không thể trở về. Đèn chiếu sáng trong ba lô Tư Mã Khôi bị rơi mất, dùng đèn halogen và pháo phát sáng không thể nhìn rõ tình hình nơi xa, nhưng chỉ nghe tiếng động, họ cũng có thể biết kẻ sắp đến chắc chắn không mang theo thiện chí. Có lẽ đám sương mù giết người của núi Dã Nhân lại lần nữa xuất hiện. Nếu bám vào tường thành hoặc rễ thực vật dưới lòng đất mà leo ngược lên trên, trong thời gian ngắn, tuyệt đối không thể trở về chỗ đầm lầy sụt lở, nếu giữa đường bị đám sương mù ấy bủa vây thì lại rắc rối to. Hơn nữa sự xuất hiện của sương mù, cũng ngầm dự báo cuồng phong giông tố do cơn bão nhiệt đới Buddha mang đến đã bắt đầu suy yếu, chắc chẳng bao lâu nữa, cả sơn cốc sẽ không còn nơi trú thân an toàn. Tư Mã Khôi hoàn toàn không biết gì về những vương triều cổ đại nhuốm đầy màu sắc tôn giáo thần bí. Ngay cả tên tuổi của vua Anagaya và tòa thành Nhện Vàng cũng lần đầunghe thấy, đó cũng là phạm vi mà mọi người chưa nhận thức tới, nên căn bản không thể suy đoán chân tướng thật sự của nó; huống hồ cảnh ngộ trước mắt lại vô cùng nguy cấp, nên họ tất phải tìm đường tháo thân trước đã. Hải ngọng trong lòng nơm nớp bất an, anh than trách: “Năm nay đúng là chẳng thuận ngay từ đầu năm, mùa xuân vừa đến, trận đánh mùa xuân liền thất bại, tiếp sau đó, đánh lớn bại lớn, đánh nhỏ bại nhỏ, chẳng đánh thì cũng thua. Khó khăn lắm chúng ta mới giữ được cái mạng trở về, ma xui quỷ khiến thế nào lại nhảy bổ vào núi Dã Nhân, kết quả làm lớn rủi lớn, làm nhỏ rủi nhỏ, chẳng làm thì cũng rủi, sao trên đời bao nhiêu chuyện rủi ro cứ trút hết lên đầu chúng ta thế nhỉ?” Tư Mã Khôi cho rằng trong lòng La Đại Hải thầm sợ, bèn nói: “Hải ngọng nhà cậu cứ việc yên tâm đi, sau mông đít nhà cậu vẫn khắc rành rành hai chữ ‘may mắn’ đấy thôi, ai chết thì chết, chứ cậu chả chết nổi đâu mà sợ.” Hải ngọng vội vàng biện minh: “Tôi đây lúc đầu cũng là người trong quân đội đấy nhé, tôi sợ quái gì chứ?” Ngừng một lát, anh lại tiếp: “Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại, có câu rất hay: ‘Sóng gió gập ghềnh thường như cơm bữa, biết lùi biết tiến mới là anh hùng’, rơi vào cục diện tình thế bất lợi này, không chạy thì chẳng lẽ ở lại đợi sét chẻ thành đôi mảnh à?”Tuyệt đề nghị: “Chạy thì đúng là phải chạy rồi, nhưng khe vực núi Dã Nhân đúng là sâu quá, xuống thì dễ mà lên thì khó, sương mù dưới lòng đất xuất hiện một cái, thì nơi đây sẽ biến thành cái ‘ống khói’, tứ phía xung quanh căn bản chẳng có đường nào để đi. Tôi thấy đánh rắn phải đánh vào tận chốn tim gan, chỉ có nghĩ cách tìm ra cội rễ sản sinh đám sương mù, thì mới phá hủy được nó hoàn toàn và đảm bảo được an toàn tuyệt đối.” Tư Mã Khôi lắc đầu nói, sương mù mênh mông như muốn nuốt chửng tất cả thế này, không thể so sánh với vật có hình có khối như đỉa Campuchia ăn thịt người được, huống hồ giờ đây đã mất cơ hội tấn công trước, hoàn cảnh vô cùng bị động, sương mù càng lan tỏa, phạm vi hoạt động của chúng ta càng trở nên nhỏ hẹp. Sắp bước lên kiệu hoa về nhà chồng mới bắt đầu bấm lỗ tai, chắc chắn sẽ chẳng kịp nhận của hồi môn nữa. Ngọc Phi Yến mắt thấy thân rơi vào đường cùng, mà hội Tư Mã Khôi thần sắc vẫn điềm nhiên như không, tư duy tỉnh táo, nên trong lòng trộm nghĩ: “Mấy tên này thật đúng là mấy kẻ liều mạng. Xem ra tinh thần thép rèn giũa từ môi trường chiến tranh bom rơi đạn lạc, quả thật đã khiến người thường không thể so sánh. Mình cũng không được lộ thái độ hoảng sợ, tránh để bọn họ chê cười xem thường”. Nghĩ đến đây, cô bèn nói: “Ngại một nỗi bóng tối dưới lòng đất lại cản trở tầm nhìn, đúng là chẳng còn cách nào mà nghĩ. Nhưng để cố gắng né tránh sương mù ở bên trên, chi bằng chúng ta hãy đánh bay ý tưởng trèo ngược lên trên, mà trước tiên phải đi thăm dò tình hình xung quanh, sau đó sẽ tìm đường thoát thân ởphần đáy cùng của sơn cốc.” Tư Mã Khôi biết Ngọc Phi Yến là dân trộm mộ có hạng, người như cô ta giỏi nhất khoản đào huyệt xuyên núi; bởi vì làm cái nghề này, bắt buộc phải có “nhãn lực”, nghe nói phương ngôn của bọn họ là “đạo nhãn vi thượng, pháp nhãn thứ chi”. Cái gọi là “đạo nhãn” tức là dựa vào kỹ năng, kỹ xảo của chính mình, trực tiếp quan sát hình núi thế sông, còn “pháp nhãn” là dùng các phương pháp như thiên tinh, hà đồ, tử vi... để phán đoán cát hung sinh tử của địa lý. Ý của họ là trước tiên phải dựa vào chính mình, sau đó mới dựa vào các công cụ hỗ trợ. Có khi ở huyệt động dưới lòng đất cô ta lại có cơ hội thể hiện sở trường nhiều hơn là ở rừng già núi sâu trên mặt đất thì sao. Nhưng vùng đất Bắc Miến này là nơi giao thoa của rất nhiều mạch đất, cho dù Kim điển sư phụ năm đó có tái thế sống lại, thì cũng nhìn mà thấy mù mịt như không. Cái gọi là “núi hiểm nước dữ”, tức ám chỉ những nơi có địa hình nhiễu loạn, thì chẳng một chương pháp nào có thể tìm ra nổi. Theo phong tục của người bản địa, sau khi người chết đi, không được trực tiếp chôn ngay xuống đất, mà phải phơi thi thể trong nhiều tháng ròng, đợi khi da thịt mục nát hết cả, chỉ còn mỗi nắm xương khô, mới cho vào chum sành chôn cất. Họ làm vậy là để đề phòng xác chết tiếp nhận khí đất mà trở thành xác ướp. Bởi vậy bản lĩnh của Ngọc Phi Yến chưa chắc đã thể hiện được ở nơi sơn cốc, nhưng do sự hạn chế của địa hình, kế hoạch cô ta vừa nêu ra cũng chính là sự lựa chọn thông minh duy nhất hiện tại, trong điều kiện gần như bó tay bất lực. Thế là mọi người bèn điều chỉnh phương án hành động, đầu tiên phải tiếp cận váchtường bên trong khe cốc, họ đứng lại phán đoán phương hướng cơ bản, rồi suy đoán chỗ dừng chân hiện tại có lẽ gần đầu phía nam của huyệt động nhất, nên liền quay đầu trở lại tòa thành Nhện Vàng, lần mò trong bóng tối đi dần về hướng nam. Kết cấu nơi sâu nhất trong khe núi Dã Nhân tuy rằng không phức tạp lắm, nhưng những thực vật bào tử này to lớn khác thường, hình thành lớp vỏ thực vật giống như kén ở mãi trên cao, nếu nhìn từ mặt cắt, nó có kết cấu hình chữ H, phần ở giữa sinh trưởng theo chiều ngang chính là “kén”, hai bên là rễ cây đâm sâu vào lòng núi, rủ xuống mặt đất. Nó bao trùm cả tòa cổ thành đúc phù điêu bốn triệu bảo tháp, liên kết thành một thể, chỉ cần rứt một sợi, sẽ chạm đến toàn thân. Bởi vậy sau khi bom địa chấn phát nổ, chất độc màu da cam hủy hoại tầng kén giống hình cây nấm đá, từ đó sự chết chóc nhanh chóng lan ra khắp một dải thực vật rộng lớn dưới sơn cốc. Giờ đây, cánh rừng rậm nguyên sinh mục nát tối tăm và rễ cây khô héo đan cài, giao kết với nhau, rồi lúc đầm lầy sụt lở, một lượng lớn bùn lầy và nước tù trút đổ xuống đáy vực, bởi thế nơi nào cũng toàn rào cản, khiến người ta muốn hành động mau lẹ cũng không được. Những cây cổ thụ hàng ngàn năm tuổi đều là những cây già hình nến đan cài lẫn lộn, tán lá dày rộng vô cùng, tầng tầng lớp lớp bủa vây. Tàn tích của loài thực vật dây leo khô quăn queo không chút sinh khí, giống như một con mãng xà đen nằm ngủ im lìm dưới bùn lầy. Tất cả hình thành nên vô số bức màn dày đặc, xem ra nơi nào cũng tràn ngập điều kỳ quái. Tuy chúng vẫn giữ một màu xanh im lìm, nhưng trên thực tế chúng đã hoàn toàn mục nát, chẳng thể cảm thấy một chút dấu tích của sự sống, không gian yên ắng tĩnh lặng mà vô cùng ngột ngạt.Dưới điều kiện môi trường khắc nghiệt như vậy, mọi người vẫn gắng gượng tiến lên, chân thấp chân cao bước trong bóng tối. Họ cũng chẳng rõ đã đi được bao xa, chỉ dựa vào la bàn để phân biệt phương hướng. Giữa lúc trong lòng họ đang thấp thỏm lo sợ, thì luồng khí âm u ngột ngạt của bùn lắng trong đầm lầy đang dần dần lan tỏa khắp lòng đất, hơn nữa độ ẩm ở đây rất cao, màn sương mù mỏng tang giữa những lùm cây khô bay lất phất, dường như sương là mưa mà mưa cũng chính là sương vậy, chúng chui vào mũi, xộc lên tận óc, khiến người ta đau buốt cả đầu. Mặt nạ phòng độc mà đội thám hiểm mang theo đã bị thất lạc, may mà quân đội cộng sản Miến Điện phân phát cho bộ đội chiếc khăn quàng dệt bằng vỏ cây, chất vải này vừa mát mẻ lại vừa mềm dai, có thể phòng tránh chướng khí, thổ ngữ bản địa gọi là khăn thủy bố. Căn cứ vào các cách sử dụng khác nhau, nó có rất nhiều công dụng hỗ trợ, đó là vật không thể thiếu khi đánh trận trong rừng sâu núi thẳm, lúc thường có thể dùng để quấn cổ, khi vào rừng thì thắt cổ áo để tránh muỗi vắt côn trùng chui vào trong quần áo. Lúc này, nó tự nhiên lại phát huy tác dụng rất tốt, hội ba người Tư Mã Khôi đều lấy ra để bịt mũi. Ngọc Phi Yến cũng muốn tìm biện pháp đề phòng hữu hiệu, nhưng trên người lại không có khăn thủy bố, nên cô ta đành tìm một chiếc khăn quàng che mặt lại, tuy vậy vẫn cảm thấy khó mà chịu đựng thêm được. Cô ta cau mày nhìn chiếc đồng hồ đo không khí đeo trên cổ tay, thấy thông số hiển thị rõ ràng trên mặt đồng hồ: lượng khí Cacbonic là 0,5; nồng độ khí Metan ở mức dưới 1%, mới tạm thời yên tâm, nhưng liền sau đó cô ta phát hiện chỉsố này lúc cao lúc thấp, chẳng biết nó bị hỏng từ lúc nào nữa. Ngọc Phi Yến vội vàng nhìn lại chiếc la bàn, phát hiện nó cũng trong tình trạng không bình thường như vậy. Nghe nói dưới lòng đất có núi từ, bởi vậy những vật sắt trôi nổi đều tự động quay về hướng nam. Từ thời thượng cổ, Hiên Viên Hoàng Đế đã biết vận dụng nguyên lý này để tạo ra xe chỉ nam, nhờ vậy mà có thể đại phá quân Xi Vưu trong sương mù; còn loại la bàn mà đội thám hiểm sử dụng là kim chỉ bắc, kim của nó chỉ về hướng Bắc là do hướng từ bắc, hướng từ bắc và hướng bắc thật sự chênh lệch một độ nhất định, nếu có thể tính ra sai số góc lệch này, thì việc đoán định phương hướng càng chính xác hơn. Thế nhưng trong khe sâu của núi Dã Nhân, dường như đang tồn tại một loại từ trường cực mạnh, kim chỉ bắc chắc chắn bị nó gây nhiễu loạn, mới mất tác dụng như vậy. Cô ta dừng chân nói với mọi người: “Khe sâu dưới lòng đất này tối mù mù, không những thế sương khí càng ngày càng dày đặc, nếu la bàn mà nhiễu loạn, thì chẳng còn vật tham chiếu nào dẫn đường nữa, chúng ta đúng là trở thành kẻ mù thật rồi.” Chiếc máy điện đàm mà Ngọc Phi Yến đeo trên lưng vẫn chưa bị thất lạc, để xác định xem có thực sự bị từ trường nhiễu loạn hay không, cô ta bảo Tuyệt mở máy điện đàm không dây ra, chỉ nghe thấy những tạp âm “rè rè”, “xẹt xẹt” phát ra, sau đó không ngờ lại có tiếng người nói lúc được lúc mất, âm thanh rất đỗi mơ hồ, cũng chẳng rõ họ muốn nói gì. Tuyệt giật nảy mình, suýt chút nữa đã ném chiếc máy xuống đất: “Ma quỷ thần ơi, sao ở đây lại bắt được tín hiệu nhỉ?”Mọi người đều nhìn nhau kinh hãi, không hẹn mà cùng lập tức đề cao cảnh giác. Tuyệt định thần lại, cố dò tìm điều chỉnh tần sóng. Âm thanh trong bộ điện đàm không dây dần dần trở nên rõ ràng hơn. Cô nghe một hồi, rồi nhỏ giọng bảo: “Đối phương hình như muốn nói đến một tọa độ nào đó!” - ngoài y thuật gia truyền ra, cô còn có tài năng thiên bẩm về ngôn ngữ, vừa mới tới Miến Điện chưa bao lâu cô đã được điều đến sư đoàn nhiệm vụ đặc biệt - khu quân sự đông bắc của quân cộng sản Miến Điện, tham gia khóa đào tạo chuyên môn giải mã điện đàm mật, các loại máy thu phát tín hiệu có công suất nhỏ thể bán dẫn không dây, nên chẳng loại nào cô không thông thạo. Không những vậy, cô còn hiểu cách xem bản đồ quân dụng, dạng tọa độ đơn giản thế này đối với cô chỉ là chuyện nhỏ. Trong lúc đang bận ghi nhớ tín hiệu vào đầu, cô chợt thấp thoáng nghe thấy một lời nói phát ra từ chiếc máy bộ đàm không dây chiến thuật: “Tôi đang... ở trong rắn…” có thể xác định chính xác đó là dạng mã quốc tế, hơn nữa nó liên tục phát ra cùng một nội dung trùng lặp. Tư Mã Khôi gật đầu với Tuyệt, ra hiệu cô hãy trả lời, đồng thời hỏi rõ thân phận của đối phương. Tuyệt làm theo lời anh, nhưng đoạn sóng điện đó lập tức chìm vào im lặng, sau đó nó đáp lại bằng một mật mã kỳ quái không thể giải đọc nổi: “A...A...D.”

Mê tông chi quốc tập 1Nơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ