Carl Jung cho rằng: người hướng nội là người lấy năng lượng bằng việc ở một mình
Thuật ngữ hướng nội (introversion) và hướng ngoại (extraversion) được phổ biến đầu tiên bởi nhà tâm lý học Thụy Sĩ Carl Jung vào năm 1921.
Theo quan điểm của Jung, người hướng nội là những người lấy năng lượng bằng việc ở một mình. Còn người hướng ngoại lấy năng lượng bằng việc tiếp xúc với những người khác.
Kể từ đó, rất nhiều nghiên cứu đã được tiến hành trên đặc điểm hướng nội, hướng ngoại của con người. Trong đó đáng chú ý là nghiên cứu của giáo sư Jerome Kagan tại Đại học Harvard, được bắt đầu thực hiện từ năm 1989 và vẫn tiếp tục đến hiện tại.
Trong thí nghiệm này, 500 trẻ em sơ sinh (4 tháng tuổi) đã được đưa đến phòng thí nghiệm Phát triển thiếu nhi tại Harvard (Laboratory for Child Development). Tại đây, từng em được cho tiếp xúc với những kích thích mới như bóng bay nhiều màu, giọng nói người lạ, hơi cồn...
Kết quả là khoảng 20% các em nhỏ khua chân, khua tay liên tục, cho thấy sự "nhạy cảm cao" (high-reactivity) với những kích thích này. Vào khoảng 40% thì hoàn toàn yên lặng và thờ ơ. Khi các em nhỏ ở lớn lên, các em lại được kiểm tra.
Và kết quả của thí nghiệm này rất thú vị: chính những em nhỏ khua chân tay mạnh lúc 4 tháng tuổi, lại chính là những người có xu hướng cao lớn lên trở thành người hướng nội. Còn những em nhỏ không có phản ứng phát triển thành người hướng ngoại.
Hành động khua tay, khua chân, không xuất phát từ sự hào hứng, mà tự sự cảnh giác, đánh đồng tác nhân mới với dấu hiệu nguy hiểm. Thí nghiệm này khẳng định: nhạy cảm với các kích thích bên ngoài (high-reactivity) chính là bản chất phân biệt người hướng nội và hướng ngoại.
Nhiều nghiên cứu khác sau đó đã khẳng định điều này. Ví dụ người hướng nội thường nghe nhạc nhỏ hơn, để màn hình điện thoại tối hơn, dễ tổn thương hơn, và thậm chí là da mỏng hơn, và tiết nhiều nước bọt hơn so với người hướng ngoại khi nhìn thấy quả chanh.
Mọi cảm xúc tích cực và tiêu cực đối với người hướng nội được phóng đại lên nhiều lần, và đó là lý do vì sao người hướng nội luôn tránh những kích thích khiến họ cảm thấy "vượt ngưỡng": nơi ồn ào, làm việc mạo hiểm, tiếp xúc với người lạ... và là nguồn gốc sinh học của tính cách rụt rè, cẩn trọng, thích yên tĩnh đặc trưng.
Câu hỏi là: nếu hướng nội là một lời nguyền và luôn chịu thua thiệt so với người hướng ngoại, thì tại sao người hướng nội vẫn tồn tại được qua quá trình tiến hóa và chọn lọc khắc nghiệt của tự nhiên?
Các nhà tự nhiên học qua quá trình nghiên cứu, đã phát hiện ra rằng không chỉ con người, mà có hàng trăm loài trong tự nhiên cũng được phân ra thành các cá thể "hướng nội" và "hướng ngoại".
Những cá thể chim "hướng ngoại", hiếu chiến, sẽ tồn tại hiệu quả hơn khi nguồn thức ăn khan hiếm. Nhưng khi thức ăn sẵn có, thì những cá thể "hướng nội" luôn cảnh giác và tránh mạo hiểm, sẽ biết cách tiết kiệm năng lượng và tránh khỏi những kẻ săn mồi tốt hơn những cá thể hướng ngoại hiếu chiến không cần thiết.