Chương 48: Cái chết của Đa Cát.

28 1 0
                                    


  Merkin và Soares thoắt lên thoắt xuống bên trong khối lập thể huyết trì, không nghe thấy tiếng súng nào, không biết là thuộc hạ của bọn y đã xử lý gọn kẻ địch, hay kẻ địch đã tiêu diệt bọn thuộc hạ kia rồi, hoặc có thể đám kia cũng đang lạc lối trong cái mê cung lên lên xuống xuống này giống hệt hai bọn y. Cả cái huyết trì khổng lồ tĩnh lặng như cõi chết, chỉ có những ngọn lửa bập bùng trong cơn gió thê lương nói với hai bọn y rằng từng có người đi qua đây.

Mùi máu tanh vương vất lại từ ngàn năm trước và cái lạnh trong không khí kéo căng dây thần kinh, những bộ xương khô, những tượng ác ma tà phật đổ nát bị ánh lửa chao động hắt bóng lên tường như chọc vào thị giác, tất cả đều nằm ngoài tầm hiểu biết của bọn y, tất cả đều tà dị khủng khiếp. Merkin nắm chặt bàn tay lại, cũng có lúc chẳng thể dựa dẫm vào vũ khí được, chỉ có thân thể mới thuộc về bản thân mà thôi. Soares nghiến răng ken két, sự tĩnh lặng ở đây khiến y sởn hết cả tóc gáy, bầu không khí quen thuộc kích thích thần kinh y, khiến y cảm thấy thấy cực kỳ ức chế, chỉ muốn giết người, muốn nhìn thấy cảnh tượng con người đã bị dã thú côn trùng cắn xé tơi tả, máu me đầm đìa, không có mảnh da nào lành lặn.

Tựa hồ chỉ có khát vọng được nghe thấy tiếng họ lăn lộn gào rú vì đau đớn mới khiến y không cảm thấy sợ hãi nữa, và cảm giác tất cả vẫn nằm trong tầm khống chế của mình. Thế nhưng, cái lạnh lẽo nặng nề trong không khí không hề thuyên giảm, càng xuống sâu bên dưới, cảm giác ức chế càng thêm nặng nề, như thể có một tên địch vô hình đang theo sát bọn y, rình rập thời cơ để đánh lén. Mỗi tiếng động vang lên, mỗi cơn gió lạnh thổi qua đều khiến bọn y thêm phần căng thẳng, cả hai cùng nhìn thấy trong mắt đối phương sự sỡ hãi của chính bản thân mình.

Vừa nãy đứng trên đỉnh không thể nhìn rõ những gian phòng huyết trì trùng trùng điệp điệp, giờ đã ở bên trong lại càng như người giữa mây mù không biết đang ở nơi đâu, cứ đi qua hai chỗ rẽ, xuống một tầng lầu, ngoảnh nhìn lại là đã không thấy gian phòng mình vừa đi qua đâu nữa. Thi thoảng xa xa có bóng người thấp thoáng, nếu gắng sức lần theo, chỉ đi qua vài gian phòng là cái bóng đã biến mất đâu không rõ. Merkin cũng không dám lớn tiếng gọi, ai mà biết y sẽ nhận được tiếng trả lời của đồng bọn hay là phát súng chuẩn xác của kẻ địch cơ chứ, mà trong lòng núi này lại có từ trường nhiễu sóng rất mạnh, thiết bị truyền tin nào cũng đều bị tê liệt hoàn toàn.

Vòng qua vòng lại rồi cũng xuống được đến đáy huyết trì, chính giữa vô số huyết trì nhỏ, có một kiến trúc hình quả trứng dựng đứng trông như một cái tổ ong khổng lồ, trên đỉnh kiến trúc này có rãnh nối trực tiếp với rất nhiều huyết trì bên trên, khắp chung quanh nó đều có lối mở, bao quanh nó có tám huyết trì, ở vòng bên ngoài nữa thì có trước năm sau bảy, hai bên trái phải mỗi bên ba mươi cái huyết trì, càng ra xa thì lại càng nhiều. Mặc dù không hiểu tại sao lại sắp xếp như thế, nhưng các lối mở của cái tổ ong ở giữa khiến hai người bọn Merkin không khỏi nghĩ nếu các huyết trì phía trên đổ đầy máu tươi, rồi chảy xuống dưới, vậy chẳng phải cái tổ ong này sẽ phun tóe ra như suối phun nước nóng hay sao...

Merkin lắc mạnh đầu một cái, ngăn mình không nghĩ tiếp nữa. Soares lên tiếng: "Chỗ này e là không có thứ mà chúng ta muốn tìm mới phải."

Merkin đáp: "Ừm, xem ra không giống lắm, đây không phải là chỗ để đặt vật phẩm gì quý báu." Lúc đi qua cái tổ ong cao bằng mười người ấy, Merkin vô ý liếc nhìn một cái, nhưng chính cái liếc hờ hững ấy lại khiến hắn phải dừng bước lại, ánh mắt nhìn chằm chằm vào chỗ bệ đỡ tổ ong. Trong mắt Soares, chỗ đó chỉ khắc một ký hiệu kỳ quái, nhưng Merkin biết rõ, đây là một cái tên. "Đông- Bản Ba", y nhanh chóng xoay sang phía bên kia, quả nhiên cũng khắc một cái tên "Trại- Bản Ba", hai mặt còn lại lần lượt là "Đảng- Bản Ba""Mạc- Bản Ba".

Trông Merkin lúc này như một ông già tuổi cổ lai hy, đưa hai bàn tay run run ra sờ mó lên những ký hiệu cổ xưa, đột nhiên khóe miệng giần giật liên hồi một chặp.

Soares nhìn thấy liền hỏi: "Sao vậy?"

Merkin lập tức giấu vẻ mặt kỳ quái đi, nghiêm nghị nói: "Không có gì, đi thôi." Có điều trước khi bước lên một cầu thang khác, hắn lại ngoảnh đầu nhìn cái tổ ong một lần nữa, ánh mắt mơ màng run rẩy, Soares chỉ lộ ra một nụ cười khinh miệt.

Đi thêm chừng mười phút nữa thì Soares bắt đầu nổi giận. Những cầu thang này lúc lên lúc xuống, có phòng chỉ nối với hai cầu thang, nhưng lại có phòng có đến bốn cái, cũng có những ngõ cụt chỉ có một cầu thang dẫn đến, cảm giác đi mãi mà cũng vẫn như đứng nguyên một chỗ vậy, muốn lùi ra khỏi đây cũng khó khăn vạn phần, chỉ có thể nhìn mà không thể đến. Đến lúc thấy kết cấu tổ ong dưới đáy, sắc mặt Merkin lại càng thêm u ám, cứ trầm ngâm bước theo từng bậc thang khi lên khi xuống, khi xuống khi lên, đi qua các gian phòng mà hoàn toàn chẳng buồn để mắt đến xương cốt rải rác và những tượng Phật hình dáng quái dị nanh ác. Nhưng nhìn ánh mắt của hắn có thể nhận ra một điều, hắn đang tính toán điều gì đó, vẫn không ngừng bôi lên cạnh cầu thang những dấu hiệu để nhận ra. Thấy những hành vi kỳ dị này của Merkin, Soares cũng chẳng buồn hỏi han gì cả.

"Lách cách", tiếng kéo chốt súng làm hai người giật mình cảnh giác, liền nhanh chóng chọn nơi ẩn nấp. Merkin lật tay ra phía sau rút khẩu M5 ra, còn Soares thì không nói tiếng nào nhét tay vào ba lô lấy ra một con chuột bạch béo nần nẫn. Merkin bình tĩnh kéo chốt an toàn, phát ra tiếng động rất khẽ, chỉ trong cự ly gần mới nghe thấy được, con chuột bạch cũng đeo một vật như hộp diêm nhỏ, nhằm hướng Soares vừa ném hạt quả đuổi theo. Bạn đang đọc truyện được copy tại

"Ồ? Chuột bạch đây mà? Ông Soares, ông chủ?" m thanh vọng tới, Merkin liền lơi tay, gài súng lại phía sau, thập giọng hỏi: "Max, chúng mày còn bao nhiêu người?"

Trong bóng tối xuất hiện một đám người, chính là Max và sáu tên nữa, có hai tên đã bị thương, nhưng không nghiêm trọng lắm. Max mừng rỡ nói: "Tôi đã bảo mà, ông chủ và ông Soares chắc chắn không có chuyện gì mà, một chút vấn đề nhỏ này làm sao gây khó khăn cho hai người được cơ chứ."

Merkin chẳng buồn để tâm đến mấy lời nịnh nọt nâng bốc của Max, nhạt giọng hỏi: "Chỉ còn lại mấy người này thôi à?"

Max trông thấy sắc mặt ông chủ không tốt, vội cuống lên nói: "Ông chủ, là thế này, sau khi chúng ta tách ra lại có lối rẽ nữa, người nhiều hang lại nhỏ, chen chúc một chỗ không tiện, nên chúng tôi đã tự động tách thành hai nhóm. Sau đó lại có đường rẽ nữa, Tây Mễ lại dẫn theo năm người tách ra, sáu người tôi dẫn theo đều ở đây cả, một người cũng không rớt lại." Hắn đặc biệt nhấn mạnh vào hai chữ "tự động". Merkin đưa mắt liếc nhìn sáu người, thấy toàn đám hảo thủ như Lôi Ba, Ngưu Nhị Oa, không cần nói cũng biết bọn thuộc hạ này phân chia đội ngũ thế nào. Đám còn lại quá nửa là đã bị dùng làm vật hy sinh cả rồi, nhóm do Tây Mễ dẫn theo chắc may ra còn tàn dư. Có điều chính y và Soares đã tách đội ra đầu tiên, nên y cũng không tra hỏi nhiều, chỉ nói: "Bọn mày đến đây bao lâu rồi?"

Max vội đáp: "Chúng tôi đuổi theo bọn người ở Tây Tạng đến đây, cứ vòng lại ở chỗ này một hồi, không hiểu đám kia biến đâu mất rồi. Nếu không phải bọn chúng chạy nhanh, hừ, chắn chắn cả đám đã bị thịt sạch rồi."

Soares thu con chuột bạch về, chỉ khịt mũi khinh thường trước sự tự đại của Max. Merkin lại hỏi: "Bọn chúng cũng ở đây hả? Chúng có bao nhiêu người? Không phản kháng gì hả?"

Max nói: "Hình như chúng còn sáu người, vừa nãy còn ở phía trước chúng tôi, có lẽ là cách chừng ba bốn tầng lầu gì đó. Phản kháng ấy à, ha ha, vũ khí trang bị và nhân số của chúng đều không bằng chúng tôi, sao mà dám phản kháng chứ, chỉ thi thoảng bắn bừa bắn bậy vài phát, không dể chúng tôi đến gần quá mà thôi."

Merkin tức giận quát: "Rắm chó, mày tưởng chúng nó sợ mày thật chắc? Tao đã bảo mày nên đi làm lính đánh thuê mới đúng, sao lại hiếu chiến thế, mày có biết người ta đang làm cái gì không hả?" Hắn chộp lấy cổ áo Max, gằn giọng nói: "Người ta đang tìm bản đồ, tìm đường ra, không có thời gian giỡn chơi với chúng mày. Chỉ có cái loại như mày trong đầu lúc nào cũng chỉ có giết người với cả giết người, chẳng còn nhớ cái đếch gì nữa! Mày nói xem, mày đã tìm thấy đầu mối nào để tìm bản đồ chưa? Mày nhìn những kiến trúc này, những tượng Phật này xem, có gợi ý gì không hả? Có dấu vết gì không hả? Có hay không!"

Ông chủ vừa gầm lên, mồ hôi Max đã túa ra như tắm. Trước một loạt câu hỏi Merkin vừa nêu, hắn ta ngoài câu "không biết" ra, thực sự không còn tìm ra đáp án nào khác nữa. Soares thấy thế liền khuyên can: "Bỏ đi, có thể theo đám người kia đến cũng không tệ rồi, nói không chừng bọn chúng có thể dẫn chúng ta đi tìm bản đồ đó. Khục khục, sáu người hả, lúc chúng vào đây có chín đứa cơ mà."

Merkin lạnh lùng nói: "Chúng nó không muốn giao chiến chính diện với chúng ta, đó là vì chúng sợ đụng đầu chạm trán, sẽ hủy hoại kiến trúc ở đây. Hừ hừ, đây là ưu thế của chúng ta, ừm, nghĩ cách theo chân chúng đi." Kế đó hắn lại dùng tiếng Trung nói với Ngưu Nhị Oa: "Nói theo cách của người Trung Quốc chúng mày thì thế nào ấy nhỉ? Ném chuột sợ vỡ đồ, kha kha."

***

Trác Mộc Cường Ba và Đa Cát đều rất đỗi vui mừng. Không ngờ đã cùng đường mạt lộ rồi mà vẫn sống sót. Trước mắt giờ chỉ có những cánh cửa đã hoàn toàn rộng mở, họ hoàn toàn không chú ý đến gì khác nữa. Tất cả đều đã phục hồi nguyên dạng, và bọn họ cũng đã leo lên hết cả pho tượng Phật khổng lồ, nói không chừng chỉ trong chốc lát nữa thôi sẽ tìm thấy giáo sư Phương Tân và những người khác. Tâm trạng Trác Mộc Cường Ba bắt đầu xao động, đi qua hết gian thạch thất này đến gian thạch thất khác, hai người đàn ông tương đối trẻ dần kéo dãn cự ly với lạt ma Á La. Thế nhưng, ở gian thạch thất nhỏ rộng chưa đầy năm mươi mét vuông cuối cùng, cả hai người đều không chú ý đến sàn nhà bằng đồng dưới chân và vòng tròn trên sàn.

Khi một chân Trác Mộc Cường Ba giẫm lên mặt sàn bằng đồng vốn tưởng đã không còn bất cứ cơ quan nào nữa, bỗng nghe "cheng" một tiếng, vòng đồng bên dưới sàn liền biến thành hai nửa vòng bán nguyệt bật tung lên, kẹp lấy một chân Trác Mộc Cường Ba khóa chặt vào sàn nhà như bẫy chuột. Đa Cát trông thấy thế, không cần nghĩ ngợi gì đã xông ngay đến định giải cứu cho Thánh sứ đại nhân, "cheng", cả anh ta cũng bị một vòng đồng khác trên sàn khóa chặt luôn.

Cái khóa hình bán nguyệt chỉ hở ra một lỗ nhỏ ở giữa, bám chặt vào mắt cá chân Trác Mộc Cường Ba, còn những chỗ khác đều khít rịt, gần như không thể nào tìm ra được mối ghép. Trác Mộc Cường Ba nhắc chân lên, cái khóa bán nguyệt cũng xủng xẻng nhắc lên theo, lôi theo một đoạn xích sắt dài. Bên phía Đa Cát tình hình cũng tương tự, anh ta thử bước đi mấy bước, được chừng ba mét thì không thể kéo đi tiếp được nữa, có điều Đa Cát không biết, đó là khi anh ta nhấc chân bước thứ hai, dây xích dưới chân Trác Mộc Cường Ba đã bị kéo xuống bên dưới. Lạt ma Á La bước đến cửa, vừa hay trông thấy Đa Cát kéo khóa đồng và một đoạn dây xích to tướng lên, còn Trác Mộc Cường Ba thì đang ngồi xổm dưới đất, vận hết sức lực thử tách đôi khóa đồng ra.

Lạt ma Á La như bị sét đánh, đứng sững sờ trong gian thạch thất, trong lòng thâm than: "Đây là... đây là sàn quyết đấu cuối cùng mà! Sơ ý quá, sơ ý quá!" Cùng lúc ấy, Đa Cát đã kéo hết sợi xích, đang chuẩn bị dùng sức giật đứt nó ra, bỗng nghe "cách" một tiếng, bốn vách tường thạch thất đều có cát chảy trào ra, bốn cánh cửa gian thạch thất và mái trần đều bắt đầu chầm chậm ép xuống. Lạt ma Á La thét lên: "Là Sàn quyết đấu hạn định thời gian! Khốn thật!"

Ánh mắt lạt ma Á La quét qua, trong thạch thất này có tám chỗ sàn nhà bằng đồng và sàn đá bình thường xen kẽ nhau xếp thành hàng, liền thấp giọng lầm bầm: "Sàn quyết đấu tối hậu có thể chứa tám vị dũng sĩ." Đột nhiên ông kêu lớn: "Nhanh lên, mau nghĩ cách mở khóa ra, có lẽ chúng ta còn mười lăm phút, không! Có lẽ chỉ còn mười phút nữa thôi, bằng không, tất cả sẽ chết hết đó."

Đa Cát lê sợi xích gắn bên dưới khóa đồng ra, nghi hoặc hỏi: "Rốt cuộc chuyện này là thế nào vậy Pháp sư đại nhân?"

Lạt ma Á La nghiêm giọng nói: "Sàn quyết đấu cuối cùng, là nơi dùng sinh tử để phân định thắng thua. Những cái khóa này một khi đã chập lại thì không có chìa khóa nào mở ra được. Hai người chắc cũng chú ý đến dây xích bên dưới khóa đồng rồi, chỉ cần số người bị khóa vào lớn hơn một, dây xích bên dưới sẽ tự động bị buộc vào với nhau, cơ quan duy nhất có thể mở khóa chính là kéo dây xích dưới chân, giật khóa đồng của đối phương xuống dưới đất, khóa của người khác chính là chìa khóa để mở khóa của mình."

Đa Cát nói: "Nhưng mà, chân bị khóa bên trên, làm sao mà kéo được cả chùm khóa xuống bên dưới sàn được?"

Giọng lạt ma Á La toát lên vẻ lạnh lùng tàn khốc "không sai, cách duy nhất để tự cứu mình, chính là chặt đứt chân đối phương. Nơi đây là Sàn quyết đấu dùng tính mạng đem ra làm vật cược, không giết chết hoặc chặt đứt chân đối phương thì bản thân không có cách nào thoát ra cả, cuối cùng tất cả những người ở trong đây đều khó thoát khỏi cái chết, bởi vì nó còn hạn chế thời gian nữa. Có thấy những bức tường kia hay không?"

Nhìn theo hướng tay lạt ma Á La, chỉ thấy cát rơi lả tả trên không trung dần dần tạo thành phần đáy hình tam giác trên tường. Ông nói tiếp: "Đây là một dụng cụ đếm giờ tương tự như đồng hồ cát vậy, khi hình tam giác trên tường bị cát lấp đầy, vách đá trên đầu và cửa đá ở bốn phía sẽ rơi xuống với tốc độ nhanh hơn bây giờ mấy lần, không ai thoát nổi cả. Không còn thời gian nữa đâu, hai người có cách gì không?"

Vũ khí đã tiêu hao toàn bộ lúc đương đầu với bọn lính đánh thuê và giun, chẳng còn lấy một viên đạn.

Trác Mộc Cường Ba lấy cái cuốc chim leo núi ra, dùng đầu nhọn ngoắc vào mắc xích, nói: "Bẻ đứt xích sắt được không?"

Lạt ma Á La thở dài: "Chỉ có thể thử thôi?"

"Cheng", sau năm lần bổ vào sợi xích, và lần thứ sáu dốc toàn lực bổ xuống, hai tay lạt ma Á La tê rần rần, cái cuốc chim leo núi không ngờ đã gãy lìa ra, còn xích sắt thì vẫn y nguyên. Khắp người lạt ma Á La nhễ nhại mồ hôi, hai mắt lồi ra: "Đây... đây, tuyệt đối không phải xích sắt bình thường, cả mũi cuốc làm bằng thép ròng cũng không làm gì nổi nó!"

Cát đã chảy ngập hơn nửa hình tam giác, Trác Mộc Cường Ba cũng quýnh quáng đến nỗi mồ hôi ướt đẫm cả lưng, chỉ có Đa Cát là trầm mặc không lên tiếng, tựa hồ như đã chấp nhận số mạng. Lạt ma Á La lật tìm trong ba lô, không ngừng lẩm bẩm: "Còn công cụ nào khác nữa không nhỉ? Còn công cụ nào khác nữa không nhỉ?"

Trác Mộc Cường Ba đột nhiên kêu lên: "Bật lửa, bật lửa hàn cắt! Chúng ta có thể đun chảy nó ra!"

Gã và lạt ma Á La liền tức khắc tìm bật lửa trong ba lô, loại bật lửa đặc chủng có thể phun ra ngọn lửa nóng đến ba nghìn độ này vừa hay có thể phát huy công dụng trong trường hợp này. Lạt ma Á La đốt dây xích cho Đa Cát, còn Trác Mộc Cường Ba thì tự lo cứu mình. Gã hướng ngọn lửa vào đúng móc xích, để mặc nó thiêu đốt, hơi nóng chẳng mấy chốc đã lan đến mắt cá chân, cả cổ chân gã cũng bắt đầu bốc mùi khói trắng, mùi thịt cháy bốc lên xộc vào mũi, Trác Mộc Cường Ba nghiến răng chịu đựng. Nhưng lạ một điều, mặc cho ngọn lửa nung đốt thế nào, tính dẫn nhiệt của sợi xích sắt vẫn giữ nguyên vẹn, không hề có dấu hiệu gì là sẽ bị nung chảy ra cả. Trác Mộc Cường Ba cuống hết cả lên, một chân giẫm lên đầu kia sợi xích sắt, vừa nung đốt, vừa dùng chân ra sức giật giật, nhưng vẫn không hiệu quả gì, ngược lại chỉ càng đau thêm mà thôi. Bên kia lạt ma Á La cũng bế tắc, ông lớn tiếng giục giã: "Đa Cát, dùng sức giật đi! Tức thật, sao lại không chảy ra nhỉ?"

Khí nén cao áp chỉ đủ dùng trong năm phút đã tiêu hao sạch sẽ, giờ thì cả ba người đều hoàn toàn ngây ra. Nhiệt độ lên đến ba nghìn độ, sắt thép bình thường chỉ chần dùng nhiệt độ bằng nửa con số ấy là đã tan chảy ra rồi, ba nghìn độ C, đến cả đá cũng bị nung chảy, vậy mà lại chẳng làm sợi xích này đỏ lên nổi. Trác Mộc Cường Ba phẫn nộ thốt lên: "Đây căn bẩn không phải là xích sắt, đây là cái quái quỷ gì vậy!" Gã bi phẫn hất văng chân lên, máu chảy xối ra từ chỗ vết thương vỡ, ngoài cảm giác đau đớn vì bị bỏng ra, không ngờ lại có cả cảm giác tê tê nữa.

Lúc này, trần nhà đã hạ thấp xuống chỉ còn một nửa độ cao, cửa đá giờ phải khom người mới chui qua được. Lạt ma Á La ngước nhìn kim tự tháp cát trên tường, hình tam giác đã đầy lên ba phần tư, chỉ còn lại mỗi cái chóp nhọn. Đa Cát nhắm mắt lại nói: "Pháp sư đại nhân, ngài đi đi, e rằng tôi và Thánh sứ đại nhân không đi được nữa rồi."

Trác Mộc Cường Ba cũng nói: "Đúng đấy, Á La đại sư, ngài rời khỏi đây trước đi, chúng ta không thể chết cả ba ở chỗ này được."

Lạt ma Á La tức giận nói: "Đi! Tôi làm sao mà đi được? Cậu bảo tôi bỏ lại hai người mà đi hay sao? Vậy tôi biết ăn nói thế nào với họ đây? Tôi biết nói với Đường Mẫn tiểu thư của cậu thế nào đây? Tôi biết nói với Đức Nhân lão gia thế nào đây?"

Đa Cát khẩn cầu: "Cầu xin ngài đấy, hãy đi đi, Pháp sư đại nhân." Anh gào lên: "Ngài đi ra đi!"

Lạt ma Á La phảng phất như đã đọc được trong ánh mắt Đa Cát một sự quyết tâm, ông giằng xé đau khổ trong khoảng khắc, cuối cùng vẫn lựa chọn lặng lẽ rời đi. Ông đã biết quyết định của Đa Cát, nhưng quyết định này không thể nói với Cường Ba thiếu gia được. Lúc vị sư già ra khỏi gian thạch thất thì đã phải quỳ cả hai chân xuống mới bò qua cửa được.

Trác Mộc Cường Ba thở phào nhẹ nhõm nói: "Tốt quá rồi, cuối cùng đại sư cũng chịu đi ra rồi."

"Thánh sứ đại nhân." Đa Cát đối mặt với Trác Mộc Cường Ba, lí nhí nói: "Cám ơn ngài, cám ơn ngài đã đưa tôi đi, trong giờ khắc đen tối nhất, ngài cũng không buông tay ra. Nhờ có ngài, mà cuộc đời tôi có ý nghĩa, không còn là một câu nói suông nữa..."

Trác Mộc Cường Ba cũng biết Đa Cát muốn làm gì, gã vội kêu lên: "Đừng làm chuyện ngu ngốc, Đa Cát, chưa đến giờ khắc cuối cùng thì đừng buông bỏ hy vọng."

Đa Cát trợn tròn đôi mắt to hơn người thường của mình lên, mỉm cười nhìn Trác Mộc Cường Ba: "Có lẽ tôi nên buông tay sớm một chút, Thánh sứ đại nhân và Pháp sư đại nhân cũng không phải vì tôi mà chịu khổ nhục nhiều đến thế. Phật tổ vạn năng đã có an bài từ trước. Phật tổ vạn năng đã có an bài từ trước, từ khoảng khắc Thánh sứ đại nhân chộp lấy tay tôi tôi đã quyết định vận mệnh thuộc về ai. Tôi chỉ là một nhân vật nhỏ không đáng nhắc đến, không có tác dụng gì trong hành trình tìm kiếm Thánh địa của Thánh sứ đại nhân, giờ đây, hãy để tôi dùng tình mạng nhỏ nhoi này của mình mà mở đường cho ngài đi!"

Con dao đi rừng lóe lên sắc lạnh, Đa Cát vận tối đa sức lực chém mạnh xuống chân mình. Trong tiếng gào thét xé ruột của Trác Mộc Cường Ba, máu tươi bắn tóe, cơn đau khủng khiếp khiến Đa Cát ngất đi trong khoảnh khắc, rồi ngay sau đó cảm giác đau dớn còn dữ dội hơn lại làm Đa Cát sực tỉnh khỏi cơn hôn mê, trong một cái nháy mắt đó, Đa Cát đã từ sống chuyển sang chết, rồi lại từ chết chuyển về sống. Xương chân đã đứt hẳn, nhưng chân anh chưa lìa ra, vẫn còn ít nhiều da thịt dính lại, gương mặt Đa Cát vặn vẹo vì đâu đớn, chỉ thấy anh nghiến chặt răng, đạp mạnh vào khóa đồng, lấy thân mình làm trọng tâm, ra sức giật mạnh một cái, cẳng chân đã gãy lìa. Sắc mặt Đa Cát tái nhợt như tờ giấy trắng, máu từ vết thương chảy ồ ồ ra như cái vòi nước. Trác Mộc Cường Ba kinh hãi sững sờ, lạt ma Á La ngoảnh mặt đi không nỡ nhìn cảnh tượng ấy. Đa Cát nghiến răng chịu đựng, gượng nở nụ cười, rút chân ra khỏi khóa đồng, kế đó, dùng thân thể nhỏ bé của mình húc cả Trác Mộc Cường Ba đang hoàn toàn ngây ngẩn lao về phía cảnh cửa đá đang sắp đóng sập lại, sợi xích dưới chân gã cũng theo đó mà kéo ra. Quả nhiên, khi cái khóa dưới chân Đa Cát chìm vào sàn nhà bằng đồng, cái khóa nơi chân Trác Mộc Cường Ba liền "cách" một tiếng, mở tung ra, kế đó cơ quan dưới sàn liền "cách" một tiếng, mở tung ra, kế đó cơ quan dưới sàn liền xoay quấn dây xích lại, chuẩn bị kéo khóa đồng về vị trí ban đầu. Lạt ma Á La sớm đã có chuẩn bị, khi Trác Mộc Cường Ba loạng choạng lại gần cửa đá, ông liền thò tay vào kéo mạnh, tức khắc khiến gã ngã nhào, rồi kéo ra bên ngoài, lúc này cửa đá chỉ cách mặt đất một quãng đúng bằng đầu người, đầu Trác Mộc Cường Ba đập mạnh vào mép cửa đá, ngất xỉu luôn tại chỗ.

Lúc này Đa Cát có muốn ra thì đầu anh cũng đã không thể chui qua cửa đá được nữa, mà anh cũng chẳng còn sức nào mà bò đến bên cửa được nữa. Đa Cát ném ra một vật nhỏ, nói lời cuối cùng với lạt ma Á La: "Pháp sư đại nhân, xin ngài hãy mang Thánh thạch giao cho Ca Ca. Cả thứ này nữa, bảo cô ấy đừng đợi tôi ở cổng thôn làm gì nữa."

Cánh cửa đá chầm chậm hạ xuống, Đa Cát cũng cảm thấy nhiệt độ và thể lực theo dòng máu từ từ chảy ra khỏi cơ thể, một tia ý thức còn tỉnh táo cuối cùng của anh phảng phất như quay trở về với quá khứ mấy năm về trước, dưới gốc cây bách lớn, cả đám trẻ con đang vui đùa ầm ĩ.

"Điệt Bất, Điệt Bất, Đa Cát Điệt Bất... Điệt Bất, Điệt Bất, Đa Cát Điệt Bất..."

Đứa bé trai gầy gò quỳ dưới đất, toát lên vẻ quật cường, quyết không để nước mắt chảy ra, vẫn lớn tiếng cãi: "Tao không phải Điệt Bất! Tao không phải!"

"Đúng mày rồi, đúng mày rồi, bố mày là Điệt Bất, mày cũng là Điệt Bất! Mãi mãi mày cũng vẫn là Điệt Bất!"

"Đợi mà xem đi, tao sẽ trở thành thợ săn giỏi nhất làng này, Thánh sứ đại nhân đến thôn làng, sẽ chỉ dẫn mình tao đi thôi!" Đứa bé trai thọc tay sâu xuống bùn, bóp thật chặt.

Sau khi bọn trẻ con đã đi hết, nó đứng lên, kinh ngạc nhìn cô bé gái trước mắt mình, bực dọc hỏi: "Này, con bé kia? Sao mày vẫn không đi? Vừa nãy không phải chính anh trai mày đầu têu bắt nạt tao hả? Cẩn thận tao đánh mày đấy!"

"Ư... cái... anh không làm thế đâu." Đôi mắt cô bé rất sáng, tựa như biết nói chuyện vậy. Cô rụt rè nói, cúi đầu mặt đỏ bừng: "Xin lỗi, em thay anh trai xin lỗi anh. Hôm ấy, cái con dê con ấy, ư... em biết là anh đã cứu nó, cái... ư... cảm ơn anh nhiều lắm."

Đứa bé trai cười ác độc: "Hây. Cảm ơn thì phải có thành ý chứ, ừm, phải làm thế nào nhỉ, thế này đi nhé, sau này làm vợ tao đi."

Mật mã tây tạng - Tập 4Where stories live. Discover now