Xưởng đóng tàu:Xưởng hải quân Maizuru-Mitsubishi Yokohama-Xưởng đóng tàu Fujinagata-Uraga Dock Company-Xưởng hải quân Sasebo-Xưởng đóng tàu Ishikawajima
Lớp con:Kiểu I (lớp Fubuki)Kiểu II (lớp Ayanami)Kiểu III (lớp Akatsuki)
Thời gian đóng:1926-1933
Thời gian sử dụng:1928-1945
Đặc điểm khái quát
Kiểu:tàu khu trục
Trọng tải choán nước:1.750 tấn (tiêu chuẩn)2.050 tấn (tái tạo)
Độ dài:115,3 m (378 ft) (mực nước)118,4 m (388 ft 6 in) (chung)
Sườn ngang:10,4 m (34 ft 1 in)
Mớn nước:3,2 m (10 ft 6 in)
Động cơ đẩy:2 × turbine hộp số Kampon.4 × (Kiểu I & II) hoặc 3 × (Kiểu III) nồi hơi.2 × trục.công suất 50.000 mã lực (37,3 MW)
Tốc độ:70 km/h (38 knot)
Tầm xa:9.200 km ở tốc độ 26 km/h (5,000 hải lý ở tốc độ 14 knot)
Thủy thủ đoàn đầy đủ:219
Vũ trang:6 × hải pháo 127 mm (5 inch)/50 caliber Kiểu 3 (3×2) 2 × súng máy 13 mm Kiểu 93 (2×1) 9 × ống phóng ngư lôi 610 mm (24 in) (3×3) 18 × ngư lôi Kiểu 91 18 × mìn sâu
Lớp tàu khu trục Fubuki (tiếng Nhật: 吹雪型駆逐艦-Fubukigata kuchikukan)là một lớp bao gồm hai mươi bốn tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo trong giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến.Lớp Fubuki được xem là "những tàu khu trục hiện đại đầu tiên của thế giới",không chỉ đặt ra tiêu chuẩn cho tàu chiến của Nhật Bản,mà còn là của tàu khu trục khắp thế giới.Vào lúc mà tàu khu trục của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và Hoa Kỳ chỉ thay đổi đôi chút từ kiểu không có tháp pháo,súng nòng đơn và vũ khí nhẹ;các tàu khu trục Nhật Bản đã lớn hơn,vũ khí mạnh hơn,và nhanh hơn mọi thứ mà hải quân các nước khác từng sở hữu.Chúng tiếp tục là những tàu chiến mạnh mẽ cho đến cuối Chiến tranh thế giới thứ hai,cho dù đã cũ hơn nhiều so với nhiều đối thủ đương thời
Bối cảnh
Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất kết thúc,Bộ Tổng tham mưu Hải quân Hoàng gia Nhật Bản đặt ra yêu cầu về một kiểu tàu khu trục có tốc độ tối đa 72 km/h(39 knot)có tầm hoạt động 7.400 km (4.000 hải lý)ở tốc độ đường trường 26 km/h(14 knot)và được trang bị một số lượng lớn ngư lôi Kiểu 8 vừa mới được phát triển.Những tàu khu trục này được dự định để hoạt động cùng loạt tàu tuần dương mới nhanh và mạnh mẽ vốn cũng đang được vạch kế hoạch,như một phần của chương trình có tham vọng cung cấp cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản một ưu thế về chất lượng so với những tàu chiến hiện đại nhất của thế giới.Kết quả là lớp Fubuki được đặt hàng vào năm tài chính 1923, và các con tàu được hoàn tất từ năm 1926 đến năm 1931.Khả năng thể hiện của chúng là một bước nhảy vọt so với các thiết kế tàu khu trục trước đó, nên chúng được gọi là các "tàu khu trục đặc biệt" (tiếng Nhật: 特型 - Tokugata)Kích thước lớn,động cơ mạnh mẽ,Tốc độ cao,bán kính hoạt động lớn và vũ khí trang bị mạnh chưa từng có khiến cho các tàu khu trục này có được hỏa lực tương đương nhiều tàu tuần dương hạng nhẹ của hải quân các nước khác.Những chiếc trong lớp Fubuki nguyên thủy chỉ được dự định mang một số ký hiệu lườn, do một số lượng lớn các tàu chiến mà Hải quân Nhật mong muốn chế tạo trong kế hoạch Hạm đội 8-8.Điều này tỏ ra rất không quen thuộc đối với thủy thủ đoàn,và là nguồn gốc của sự nhầm lẫn thường xuyên trong liên lạc đối với các lớp Kamikaze và Mutsuki trước đó.Vì thế chính sách của Hải quân thay đổi vào tháng 8 năm 1928.Vì vậy,những chiếc trong lớp Fubuki được mang sẵn những cái tên ngay khi chúng được hạ thủyNhững tàu khu trục tương đương gần nhất của Hải quân Hoa Kỳ là lớp Porter có tính năng kém hơn hẵn và vũ khí trang bị nhẹ hơn,và chỉ có tám chiếc được chế tạo trong những năm 1930 để hoạt động như những tàu chỉ huy hải đội khu trục
