Trong nền văn học phương Đông không thiếu những tác phẩm lên án chiến tranh phong kiến phi nghĩa qua hình ảnh người chinh phụ chờ chồng. Đó có thể là tác phẩm Xuân Tứ của Tiên thi Lý Bạch, có thể Binh xa hành của Đỗ Phủ... nhưng có lẽ hiếm có tác phẩm nào sâu sắc và đầy đủ như Chinh phụ ngâm. Đặng Trần Côn có lẽ đã vượt mặt cả những thi nhân nổi tiếng như Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Đỗ Phủ, Lý Thương Ẩn,... trong thể loại này, khi ông không chỉ khắc họa được sự tàn ác, phi lý của chiến tranh phong kiến, mà còn cả sự băn khoăn, day dứt, bối rối giữa cái chữ trung và chữ tình, sự khắc khoải, mỏi mệt trong nỗi chờ mong và những tháng ngày lo lắng cứ mãi kéo dài không có điểm dừng của người phụ nữ cô đơn nơi phòng khuê.
"Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen"
Như trong Kiều, Nguyễn Du đã từng để Kiều nói câu 'phận gái chữ tòng', hay như trong Tân Hôn Biệt có câu 'Thệ dục tùy quân khứ(1)', đã là phận vợ, dù đến chân trời góc bể cũng muốn theo chồng. Nhưng 'Hình thế phản thương hoàng(2)', mà 'Phụ nhân tại quân trung/ Binh khí khủng bất dương(3)', người vợ có chồng đi lính lại chỉ có thể ở lại nhà. Có chồng, nàng pha trà cùng quân đối ẩm, nhưng quân nay đi rồi, nàng đành 'dạo hiên'. Nàng đếm từng bước chân, tựa như đếm từng ngày chồng đi, đếm từng ngày nỗi nhớ thương đong đầy trong cách trở. 'Có khoảng không gian nào đo chiều dài nỗi nhớ(4)' đâu! Hết dạo hiên, nàng lại kéo rèm. Kéo rèm xuống, nàng như nhác thấy bóng chồng khuất đi, vội kéo rèm lên, hóa ra chỉ là tình cảm và ánh nước trong mắt lùa dối nàng. Nhưng khi nàng hạ rèm xuống, nàng lại vẫn thấy mọi chuyện diễn ra như cũ, và rồi nàng cứ vô thức lặp đi lặp lại một hành động ấy... Người đời hận 'Quân sinh ta chưa sinh/ ta sinh quân đã lão/ Quân hận ta sinh trì/ Ta hận quân sinh tảo(5)', nhưng có lẽ chỉ những người có duyên có phận lại chẳng được gần nhau như thế mới biết được nỗi sợ của việc không được cùng kẻ kết duyên 'thượng cùng bích lạc hạ hoàng tuyền (6)'.
Hiên vắng không phải vì không có người, mà vì người quan trọng nhất không ở bên nàng.
"Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng
Đèn có biết giường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên."
Giữa thời buổi loạn lạc, nhà có người đi lính, 'gia thư để vạn kim(7)', họa có mấy khi có người về báo tin chiến trận? Người vợ nghe tin thắng trận cũng lo sợ, mà nghe tin thua trận cũng lo sợ, vì 'Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?(8)'. Không nghe tin chồng nàng chỉ có thể chờ đợi trong lo sợ, nàng như chết dần chết mòn vì sự bi thiết trong lòng, sự bi thiết đến từ nỗi chờ mong trong cô lẻ, triền miên. Đến cả loài chim – loài có đôi cánh, có thể dang rộng bay khắp thiên hạ, cũng chẳng biết tin, há một người phòng khuê như nàng lại có thể biết tin? Dù cho 'Hoàng điểu tọa tương bi(9)', 'Biệt li chim cũng vì người xót xa(10)', nhưng nàng vẫn chẳng có người đồng cảm, tựa như Bá Nha mất đi Tử Kì, Trang Tử mất đi Huệ Thi. 'Lệ rơi khêu ngọn đèn(11)', nàng chong đèn suốt đêm, không ngủ được mà cũng chẳng dám ngủ – có lẽ chồng nàng sẽ về, và nàng không muốn chậm trễ đón chàng. Nhưng gà gáy canh năm, trời sáng rồi, mà bóng chàng vẫn cứ biệt tăm. 'Cành liễu ai người vin?(12)', chỉ có hòe phất phơ in bóng lên tường khi mặt trời của ngày mới đến. Ai bảo mặt trời là hi vọng, ai bảo ánh sáng là nguồn sống? Nàng chỉ biết, một ngày đã lại qua, số ngày chia cách lại tăng thêm một, nỗi nhớ trong nàng lại dâng đầy, lo sợ cũng như nước lũ mà phá ra.