3.

131 22 1
                                    


Chỉ còn vài ngày nữa là đến cái ngày ấy, ngày sinh nhật của Alfred. Tôi lao vào công việc để có thể quên điều đó đi. Lẽ ra chuyện đó đã trót lọt nếu như tên cóc khốn kiếp nào đó không gửi cho tôi thư mời dự tiệc sinh nhật hắn. Matthew sinh ngày 1/7, Alfred là 4/7, còn Francis thì là 14/7. Thế nên sau Alfred cũng sẽ đến lượt Francis đón sinh nhật. Hắn chưa gì đã gửi thư mời, đúng là cái đồ phô trương đáng ghét!

Mà, hình như Alfred chưa từng mời tôi dự sinh nhật cậu ta... Tôi cũng chẳng muốn đến đó chút nào. Ngày vui của người này lại là ngày buồn của người khác. Tôi ngó lên cái lịch để bàn, hôm nay đã là 2/7 rồi. Mới hôm qua tôi còn gọi điện cho Matthew chúc mừng sinh nhật em ấy. Chỉ còn 2 ngày nữa là cơ thể tôi sẽ phải hứng chịu đau đớn và bệnh tật như mọi năm. Có lẽ vì chấp niệm của tôi dành cho miền đất "America" ngày ấy quá lớn. Đứa trẻ ngày nào tôi còn dắt tay băng qua những cánh đồng hoa trắng muốt, che chở vỗ về em khi đêm đến sương giăng... Giờ đây em đã không còn cần bàn tay tôi nữa. Đôi chân em đã lớn khỏe đủ để dẫm lên những ngọn cỏ cản đường. Và khuôn mặt em, giọng nói em cũng vẫn vậy nhưng có chút xa cách. Đã không còn là đứa nhỏ luôn chạy theo tôi nữa. Alfred đã xa rời vòng tay tôi, theo tiếng gọi tự do kiêu hãnh. Chợt tôi lại nhớ đến tấm bản đồ tôi đã tìm được cách đây không lâu. Bàn tay tôi nhanh chóng mở ngăn kéo bàn, tấm bản đồ da vẫn nằm đó vẹn nguyên.

***

Đứng nơi đại sảnh cung điện Hampton Court, tôi căng tấm bản đồ ra trước mặt. Điểm đánh dấu trên này dẫn tôi đến đài phun nước. Và tôi bắt đầu tìm kiếm khắp khoảng sân xung quanh đây. Kỹ năng của một tay cướp biển lẫy lừng ắt hẳn không thể mai một. Có khi tôi phải quỳ xuống, bò quanh đài phun nước xem xét. Khi đứng lên thì quần tôi đã bám đầy những ngọn cỏ xanh. Đôi mắt tinh tường liền nhìn ra chỗ cột đèn có một ngăn bí mật mà trước giờ tôi quên mất. Trong đó lại là một tấm bản đồ khác. Nhưng trời đã chuyển sắc tối, nên tôi đành mang theo tấm bản đồ mới quay về nhà.

3/7, sáng tinh mơ tôi đã bò khỏi giường. Sau khi được uống một tách trà nóng, tôi như tỉnh táo hơn. Y phục chỉnh tề, tôi lại khởi hành đến cung điện Hampton Court để tiếp tục việc "tìm kho báu" dang dở hôm qua. Thời tiết hôm nay có chút âm u, nhưng mát mẻ. Tấm bản đồ thứ hai được tôi nhét hẳn vào túi. Hôm nay tôi còn cẩn thận đem cuốc xẻng theo. Trong lòng khấp khởi mong rằng tôi sẽ tìm được mấy món nữ trang hay đá quý đẹp, để còn lòe cái tên cóc nghiện rượu Francis.

Đến nơi, rất nhanh chóng tôi đã xác định được chỗ mình cần đào. Không hổ danh là tay cựu cướp biển khét tiếng ngày xưa. Chính tại mảnh vườn nơi đài phun nước cung điện đây, tôi chỉ việc bước mấy bước chân nữa. Cái xẻng lớn được tôi cắm mạnh xuống đất tạo ra một tiếng "phập". Tôi cẩn thận cởi áo vest ngoài ra, tay áo sơ mi trắng được xắn lên cao để không bị vấy bẩn nhiều. Bàn tay tôi đã đeo thêm găng tay làm vườn, như vậy sẽ không bị trượt tay khi tôi đào đất. Mấy chú chim bồ câu béo ụ cũng bị âm thanh ồn ào dọa sợ mà bay mất. Chúng như mất dạng vào bầu trời ảm đạm mây. Chỉ còn một con quạ đậu trên cái cột đèn gần đó là vẫn tò mò quan sát. Khi nó cất lên âm thanh rợn người, tôi cũng liền đến xua nó bay đi. Con quạ suýt chút nữa đã nhảy bổ vào tôi. Những sợi lông đen rơi ra khi con quạ tung cánh, nhẹ nhàng đáp xuống trên vai tôi vài sợi.

- Thật xui xẻo... - Tôi lẩm bẩm.

Có người nói loài quạ là sứ giả của những linh hồn lạc lối. Mà ngay tại nơi mà hoàng hậu đoản mệnh Anne Boleyn từng ngự lại, tôi không dám mong đây là điềm may chút nào. Rồi tôi phủi vội mớ lông quạ đen trên áo, quay lại đào xới "kho báu" lên.

Sau một hồi hì hục đào, cuối cùng cái xẻng cũng chạm được đến một vật gì đó. Tôi vui mừng dùng xẻng nhỏ đào men theo. Cái rương gỗ khá lớn hiện ra trước mắt làm tôi hài lòng hơn bao giờ hết. Tôi dùng xẻng đập mạnh vào ổ phá khóa, thành thạo như tôi đã từng làm nhiều lần năm xưa. Sau khi cẩn thận cởi găng tay, tôi hồi hộp mở cái rương gỗ ra. Bên trong chỉ toàn là giấy.

- Không thể nào...

Tôi nhặt một tờ lên xem xét.

Là một lá thư!

Một lá thư được viết từ rất lâu. Tôi lục lọi đọc thêm mấy tờ nữa. Đây đều là thư mà tôi đã viết cho Alfred từ rất lâu trước đây. Hai chân tôi như không còn sức, cứ vậy mà ngồi bẹp xuống mặt đất trong sự hụt hẫng. Những lá thư tôi viết khi đang chu du trên biển để gửi đến Tân Thế Giới thăm hỏi cậu em nhỏ. Rồi khi đó lại ngại ngùng không dám gửi đi. Cả những lá thư viết vội với câu văn tức giận, thời điểm Alfred có tư tưởng chống đối tôi. Nhưng tôi cũng không dám gửi đi vì đau đớn. Nước mắt tôi lã chã tuôn khi đọc lại những lá thư viết sau ngày Alfred giành độc lập. Tôi đã suy sụp tinh thần sau cái ngày mưa tuôn xối xả ấy. Trước lưỡi lê súng trường của Alfred, tôi đã mong cậu ta sẽ bóp cò. Chúng tôi không nhìn mặt nhau nhiều năm sau chuyện đó. Nên bao sự nhung nhớ tôi chỉ dám bí mật viết vào những lá thư không gửi. Vậy ra tôi đã chôn chặt nó tại nơi này suốt bao năm qua. Cũng như tôi luôn cố chôn chặt tình cảm dành cho Alfred. Từ lúc nào mà tôi đã yêu tên nhóc đó, để rồi cảnh chia ly mới sầu thảm biết bao nhiêu. Cậu ta sau cùng vẫn chọn ly khai, chúng tôi đã từ lâu không còn chung tiếng nói. Cung điện lạnh lẽo đau thương cùng câu chuyện về hoàng hậu Anne Boleyn, cũng là nơi tôi chôn vùi đi những lá thư hoen ố viết khi cô độc nhất.

USUK APH Fanfic - The Letters (Thư tình trao tay)Nơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ