Kế toán Mỹ: Kế toán HTK (Inventories Accounting)
TCKT cập nhật: 29/08/2006
1. Khái niệm và phân loại HTK
- HTK là toàn bộ số hàng mà doanh nghiệp đang nắm giữ với mục đích kinh doanh thương mại hoặc dự trữ cho việc sản xuất sản phẩm hay thực hiện dịch vụ cho khách hàng.
- Đối với doanh nghiệp thương mại, HTK bao gồm hàng hoá tồn kho (Machandise Inventory), hàng đang đi đường (Goods in transit) hoặc hàng gửi bán (Goods on consignment).
- Đối với doanh nghiệp sản xuất, HTK bao gồm: nguyên vật liệu (Raw materials), sản phẩm đang chế tạo (Work in process) và thành phẩm (Finished products).
2. Các phương pháp hạch toán HTK
a. Phương pháp Kê khai thường xuyên (Perpetual Inventory System)
b. Phương pháp Kiểm kê định kỳ (Periodic Inventory System)
3. Tính giá HTK
a. Tính giá HTK tăng
- NVL mua chuẩn bị cho sản xuất
- Hàng hoá mua về để bán
- Sản phẩm hoàn thành từ quá trình sản xuất
b. Tính giá HTK giảm
Có thể tính theo nhiều phương pháp nhưng phải tôn trọng nguyên tắc nhất quán (Consistency Principle).
b1. Phương pháp giá đích danh (Specific Identification)
b2. Phương pháp giá đơn vị bình quân (Weighted Average Cost)
Phạm vi tính của phương pháp này có thể là cả kỳ hoặc sau mỗi lần nhập.
b3. Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO - First in, First out)
b4. Phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO - Last in, First out)
4. Thay đổi giá trị HTK
Tuân thủ nguyên tắc nhất quán không có nghĩa là một doanh nghiệp không bao giờ được thay đổi phương pháp kế toán, tuy nhiên doanh nghiệp phải giải trình lý do thay đổi và ảnh hưởng của sự thay đổi đến thu nhập thuần trong báo cáo tài chính. Giá trị HTK cuối kỳ có thể được xác định bằng cách sử dụng 1 trong 4 phương pháp trên. Tuy nhiên giá trị HTK chưa đủ căn cứ để ghi nhận trên Bảng cân đổi kế toán vì nguyên tắc kế toán (Nguyên tắc thận trọng - Conservatism Principle) đòi hỏi HTK phải được báo cáo theo giá thị trường vào bất cứ thời điểm nào mà giá thị trường thấp hơn chi phí (giá thực tế hình thành HTK). Trong khi các giả định về dòng chi phí hàng tồn kho lại sử dụng giá vốn hàng tồn kho (giá phí lịch sử) để tính toán. Do vậy, khi lập báo cáo tài chính, kế toán phải lựa chọn mức giá thấp hơn giữa giá vốn (giá phí) và giá thị trường (market price). Việc thay đổi giá trị hàng tồn kho vào thời điểm lập báo cáo như vậy gọi là mô hình LCM (Lower of Cost or Market).
a. Đánh giá hàng tồn kho theo giá thị trường của hàng hoá thay thế
Giá của hàng hoá thay thế chính là số tiền mà doanh nghiệp phải trả để mua hàng hoá mới thay thế cho số HTK. Khi chi phí thay thế hàng hoá giảm xuống thấp hơn chi phí ban đầu thì cũng có nghĩa là giá bán của hàng hoá giảm xuống. Do đó hàng hoá có giá trị thấp hơn đối với doanh nghiệp và nó phải được ghi sổ theo giá vốn của hàng hoá thay thế.