Viễn Phương tên thật là Phan Thanh Viễn, quê ở An Giang, mảnh đất cực Nam của Tổ quốc. Ông là nhà thơ có mặt sớm nhất trong lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời kì chống Mĩ. Viễn Phương đã có mấy tập thơ được xuất bản, trong đó có nhiều bài hay. Bài thơ Viếng lăng Bác sáng tác năm 1976, trong không khí xúc động của nhân dân cả nước khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được hoàn thành sau ngày giải phóng miền Nam, thông nhất đất nước, đồng bào miền Nam có thế thực hiện mong ước được ra Hà Nội viếng lăng Bác Hồ. Đây là một trong những bài thơ hay nhất viết về đề tài lãnh tụ. Bài thơ đã được phổ nhạc và được đông đảo quần chúng nồng nhiệt đón nhận. Từ mảnh đất Thành đồng Tổ quốc vừa trải qua mấy chục năm trời chiến đấu gian khổ chống xâm lăng, Viễn Phương ra thăm miền Bắc và theo dòng người đến viếng lăng Bác ở quảng trường Ba Đình. Cảm xúc mãnh liệt đã biến thành nguồn thi hứng dạt dào. Bao trùm toàn bài thơ là tình cảm thiết tha, niềm khâm phục, ngưỡng vọng, biết ơn và ước nguyện của tác giả nói riêng và nhân dân miền Nam nói chung đối với Bác. Giọng điệu chung của bài thơ trang trọng và tha thiết. Nhiều hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng chứa đựng ý nghĩa sâu xa. Ngôn ngữ bình dị mà gợi cảm, biểu lộ lòng thành kính và niềm xúc động chân thành của nhà thơ nói riêng và của mọi người nói chung khi vào lăng viếng Bác. Cảm xúc trữ tình chi phối hình tượng thơ và ngôn ngữ thơ. Khung cảnh lăng Bác được miêu tả từ xa tới gần, từ khái quát tới cụ thể. Bài thơ khá gọn, chỉ có 4 khổ, 16 dòng, kết hợp giữa miêu tả với biểu hiện tâm trạng của nhà thơ trong cuộc viếng thăm lăng Bác. Ngoại cảnh được miêu tả bằng vài nét chấm phá, nổi bật là hình ảnh hàng tre và hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác. Bao trùm bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót xa, nuối tiếc. Cảm hứng ấy đã chi phối giọng điệu của bài thơ. Đó là giọng điệu thành kính, trang nghiêm, phù hợp với không khí thanh tĩnh, thiêng liêng nơi Bác Hồ đời đời yên nghỉ. Mở đầu bài thơ là cảm nhận của tác giả về khung cảnh bên ngoài lăng. Có lẽ gây ấn tượng mạnh nhất chính là hình ảnh hàng tre xanh tốt quanh lăng, gợi nhớ đến hình ảnh thân thương, quen thuộc của quê hương, đất nước. Tiếp đó là hình ảnh dòng người nối nhau bất tận, ngày ngày vào lăng viếng Bác. Những suy ngẫm về Bác được gợi lên từ những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng như : mặt trời, vầng trăng, trời xanh. Cuối cùng là ước nguyện thiết tha của nhà thơ là được mãi mãi ở bên lăng Bác. Cảm xúc chân thành và mãnh liệt đã tạo nên bố cục tự nhiên và hợp lí của bài thơ. Trong khổ thơ đầu, tiết tấu chậm rãi và hình ảnh giàu ý nghĩa tượng trưng gợi không khí thiêng liêng, thành kính nhưng vẫn ấm áp, gần gũi: Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi ! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng. Từ miền Nam, nhà thơ ra thăm miền Bắc với niềm sung sướng vô biên của người con xa quê đã lâu ngày. Câu thơ mở đầu ngắn gọn như một thông báo, nhưng lại phản ánh rất thật tâm trạng xúc động của nhà thơ – chiến sĩ sau bao năm mong mỏi, bây giờ mới được thỏa nguyện. Ấn tương đầu tiên của tác giả là về hàng tre dẫn vào lăng Bác. Tự đáy lòng, cảm xúc rưng rưng bật thốt thành lời: Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam,Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng. Quanh lăng Bác có nhiều loài cây và hoa quý của mọi miền đất nước. Song không phải tình cờ mà nhà thơ lại chọn hình ảnh hàng tre. Cây tre được coi là biểu tượng của đất nước Việt Nam, tượng trưng cho phẩm chất cao quý của dân tộc Việt Nam: cần cù, bền bỉ, bất khuất, thủy chung.