KHOÁ XII
KINH KIM CANG
Dịch nghĩa và lược giải
--- o0o ---
Bài thứ nhứt
Bài thứ nhứt : Đề mục Kinh
Tên tác giả
A. Phần tự
Bài thứ hai
B. Phần Chánh tôn
Bài thứ ba
B. Phần Chánh tôn (tiếp theo)
Bài thứ tư
B. Phần Chánh tôn (tiếp theo)
Bài thứ năm
B. Phần Chánh tôn (tiếp theo)
Bài thứ sáu
B. Phần Chánh tôn (tiếp theo)
Bài thứ bảy
B. Phần Chánh tôn (tiếp theo)
Bài thứ tám
B. Phần Chánh tôn (tiếp theo)
Bài thứ chín
B. Phần Chánh tôn (tiếp theo)
Bài thứ mười
B. Phần Chánh tôn (tiếp theo)
C. Phần Lưu thông
BÁT NHÃ TÂM KINH
Dịch Bản
Kinh Bát Nhã toát yếu
Bát Nhã tâm kinh
Lược Giải
Kinh Đại Bát Nhã toát yếu
Phần Duyên khởi -Phần Chánh tôn
Phụ lục
Phụ lục: Một "Sự nghiệp" của đời tôi
--- o0o ---
LỜI TỰA
Phật nói kinh Đại Bát Nhã, tại 4 chỗ, 16 hội, chép đến 600 quyển(1) mới hết (Nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm). Tóm tắt bộ kinh lớn trên là "Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật", gọi tắt là "Kinh Kim Cang". Kinh này rút lại trong một bài là "Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh", gọi tắt là "Tâm kinh", gồm 260 chữ. Rốt sau Phật dạy:" Ta không nói một chữ".
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, mở đầu, mà cũng là trọng tâm của kinh này, bằng hai câu hỏi của ông Tu Bồ Đề:
"Vân hà ưng trụ?"
"Vân hà hàng phục kỳ tâm?"
Nghĩa là:
"Làm sao hàng phục vọng tâm?" và
"Làm sao an trụ chơn tâm?"
toàn bộ kinh Kim Cang Bát Nhã, Phật chỉ giải đáp hai câu hỏi trên, tóm tắt lại chỉ trong một câu:
"Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm"
nghĩa là: "Đừng sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào". Đây là câu "tinh ba" của bộ kinh Kim Cang Bát Nhã, msà ngày xưa đức Lục Tổ Huệ Năng nhờ đó đã được tỏ ngộ.