Hai ông bà, mỗi người có một phòng riêng. Cả hai đều đã ngót bảy mươi, nếu không hơn. Tuy thế, họ vẫn cố tận hưởng mọi lạc thú cõi trần, dù rằng một chân đã mấp mé bên miệng huyệt. Ăn nói thế là mất dạy, tôi biết, nhưng trong thâm tâm tôi hoàn toàn chẳng muốn nói thế chút nào. Tôi chỉ muốn bảo: tôi nghĩ nhiều về ông thầy giáo già Spencer. Nhưng nếu nghĩ ngợi nhiều quá về ông, bạn sẽ lập tức thấy kinh ngạc sao ông ấy cứ sống mãi thế không biết?! Thì các bạn thấy đấy, lưng ông ấy đã còng gần sát đất, đi đứng thì chậm chạp, đến nỗi hễ đánh rơi cục phấn giữa lớp thì mấy đứa ngồi ở dãy bàn đầu phải lập tức cúi xuống, nhặt giúp và trao lại tận tay. Theo tôi, đã vậy thì còn sống làm quái gì! Nhưng nếu đừng quá bận tâm đến ông ấy, mà chỉ nghĩ qua quít thì hóa ra ông ấy ăn ở cũng chẳng đến nỗi tệ bạc lắm. Chẳng hạn, có lần, vào một ngày chủ nhật, ông ấy đã tự đứng ra thết tôi với mấy đứa nữa, mỗi thằng một cốc sôcôla nóng, rồi đem khoe với bọn tôi tấm chăn Anh điêng sắp nát mủn mà ông ấy với bà Spencer đã mua lại được của một anh chàng người Navaho, tại công viên Yellow Stone. Trông cũng biết ông ấy rất khoái chí vì đã mua được tấm chăn. Đấy, bây giờ hẳn các bạn hiểu điều tôi muốn nói về thầy Spencer rồi chứ? Nghĩa là ở ông già lụ khụ ấy còn có một con người thứ hai nữa, từa tựa như ông ấy. Thế nhưng ông già thứ nhất vẫn khoái chí như ai, vì đã sắm được một tấm chăn lạ mắt của người Anh điêng thuộc bộ tộc Navaho.
Cửa phòng ông Spencer vẫn để ngỏ, nhưng tôi vẫn gõ khẽ cho lịch sự. Tôi cũng nhìn thấy ông ấy hẳn hoi, thầy đang ngồi trong chiếc ghế xa-lông bọc da, rộng thênh thang, người quấn chặt trong tấm chăn tôi vừa kể kia. Ông già quay người lại, khi thoáng nghe mấy tiếng gõ khẽ.
- Ai đó? - Ông lớn tiếng hỏi - Cậu đấy hả Caulfield? Vào đi cậu bé, vào đi!
Giọng thầy vẫn oang oang như lúc giảng bài trên lớp. Nghe rất chối óc, thật đấy. Vừa bước vào là tôi đã ân hận ngay, chẳng biết ma quỷ nào xui mình mò tới đây. Ông đang xem tờ Atlantic Monthly, và nhìn đâu tôi cũng thấy bày la liệt nào thuốc viên, nào thuốc chai. Khắp phòng nồng nặc mùi thuốc nhỏ mũi để chống cảm lạnh. Tôi đâm buồn bã. Tôi, nói chung, không thích nhìn thấy cảnh đau ốm. Tôi càng rầu hơn nữa, bởi nhìn thấy ông già choàng chiếc áo ngủ cũ mèm, sờn rách, thảm hại hết chỗ nói, chắc ông ấy đã dùng nó từ lúc mới lọt lòng, thật đấy. Tôi vốn chúa ghét người già cả lúc họ thắng bộ áo choàng ngủ hoặc pijama. Tứ thời, họ toàn để phanh ngực, phô hết mấy chục chiếc xương sườn ọp ẹp. Lại cả những bộ giò dễ sợ của họ nữa chứ! Thì đã mấy ai được nhìn thấy một ông già nào ngoài bãi biển có bộ giò trơn tru, trắng trẻo, không một sợi lông chưa?
- Chào thầy! Em có nhận được thư thầy. Cảm ơn thầy nhiều lắm - Ông ấy có viết cho tôi một mẩu giấy, nhắn tôi đến chào từ biệt trước lúc về nghỉ đông. Ông già thừa biết tôi chẳng bao giờ thèm quay lại trường - Lẽ ra thầy không cần phải viết đâu. Vì đằng nào em chẳng đến từ giã thầy trước lúc đi hẳn?
- Ngồi xuống đây, chú bé - Thầy Spencer bảo, chỉ tay vào cái giường ngủ kề bên cạnh. Tôi ngồi xuống mép giường.
BẠN ĐANG ĐỌC
Bắt Trẻ Đồng Xanh (The Catcher in the Rye)- J.D.Salinger
Aktuelle LiteraturTác phẩm : Bắt trẻ đồng xanh Tác giả : J.D.Salinger