Nhắc đến Tố Hữu là nhắc đến một trong những nhà thơ có một vị trí đặc biệt trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Đặc điểm phong cách thơ Tố Hữu là khuynh hướng thơ trữ tình chính trị, nhà thơ luôn hướng tới cái ta chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn và con đường cách mạng luôn song hành với con đường thơ ca. Nổi bật lên là bài thơ "Từ Ấy" in trong tập thơ cùng tên " Từ Ấy " - là bài thơ đầu tiên mở đầu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị ở những chặng thơ đầu tiên của nhà thơ.
Thân Bài :
Khái quát : Bài thơ Từ Ấy được in trong phần Máu Lửa của tập thơ " Từ Ấy ". Được Tố Hữu sáng tác vào năm 1938, bài thơ viết về một sự kiện có ý nghĩa làm nên bước ngoặt lớn trong đường đời và đường thơ của Tố Hữu - Giây phút nhà thơ bắt gặp ánh sáng lí tưởng cách mạng.
Đi vào giải thích câu nói : Nói thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị có nghĩa là những sự kiện chính trị có ý nghĩa lớn với Đất Nước, với cá nhân, làm thay đổi cả một đời người đều trở thành nguồn cảm hứng trong thơ Tố Hữu. cái chất trữ tình cùng cảm xúc chân thành của nhà thơ quyện vào nhau, làm nên những vần thơ ca ngợi Đảng, ca ngợi Cách Mạng.
Bài thơ " Từ Ấy" là bài thơ đánh dấu mốc son quan trọng, có ý nghĩa nhất đối với cuộc đời của nhà thơ, chính giây phút nhà thơ bắt gặp ánh sáng lí tưởng cách mạng ấy đã làm nên sự thay đổi kì diệu về nhận thức, lí tưởng của một hồn thơ thuộc về cách mạng, thuộc về nhân dân..
Luận điểm 1 : Đến với khổ thơ mở đầu, ta bắt gặp cảm xúc vui sướng, hạnh phúc, say mê của hồn thơ Tố Hữu khi lần đầu tiên bắt gặp ánh sáng lí tưởng cách mạng. Một nguồn cảm xúc thiêng liêng và chân thành xuất phát từ chính trái tim của nhà thơ. Đây cũng là xúc cảm tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu.
"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim..."
Ngay từ câu thơ mở đầu đã bắt gặp hình ảnh " Từ Ấy " => đem lại sự ấn tượng và khẳng định một lần nữa khoảng time mà nhà thơ bắt gặp ánh sáng lí tưởng. Nói lên cảm xúc của mình trước những giây phút thiêng liêng như thế, nhà thơ sử dụng các thử pháp nghệ thuật : so sánh, ẩn dụ và nhân hoá.. hình ảnh " nắng hạ " cho ta thấy được một cái ánh nắng chói chang gay gắt của buổi trưa hè. Khác với nhiều nhà thơ khác luôn tìm đến ánh trăng, tới cái ánh nắng của buồi chiều sa thì Tố Hữu tìm đến cái nắng của mùa hạ. Đúng vậy, cũng chỉ có ánh nắng ấy mới toả được sự chói chang rực rỡ của lí tưởng cách mạng, mới diễn tả được hết sự sửng sốt và choáng váng của nhà thơ khi đứng trước cái lí tưởng rực rỡ như thế.Soi tỏ vào bài thơ này ta mới thấy hết được nguồn cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước ánh sáng huy hoàng của chân lý
" Đời đen tối ta phải tìm ánh sáng
Ta đi tới chỉ một đường cách mạng "
Và dường như như thế chưa đủ để nói lên sự toả sáng của " lí tưởng cách mạng " nhà thơ lại tìm đến hình ảnh " Mặt trời chân lí ", đó chính là biểu tượng cho lí tưởng mà nhà thơ theo đuổi. Hình ảnh mặt trời biểu hiện cho sự ấm nóng, rực rỡ và là nguồn sáng bất diệt. Đúng vậy, lí tưởng ấy đâu phải chí toả sáng trong phút chốc mà sẽ toả sáng bất diệt, là nguồn sáng vĩnh cửu, không gì có thể dập tắt nổi. Tố Hữu gọi lí tưởng cách mạng là mặt trời chân lí bởi đó chính là nguồn sáng dẫn đường cho cuộc đời đã từng tối tăm, mù mịt của nhà thơ khi " băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời "... Mặt trời chân lý ấy " chói " qua tim người nghệ sĩ . hình ảnh trái tim là nơi chứa đựng biết bao tình cảm , cảm xúc, là nơi kết hợp giữa tâm lí và ý thức trí tuệ " mặt trời chân lí chói qua tim giống như xuyên rọi qua tất cả những tình cảm, lí tưởng của nhà thơ và cũng chỉ khi được ánh sáng ấy chiếu rọi nhà thơ mới thực sự hành động đúng, mới cảm thấy được ý nghĩa của cuộc sống mình .
Chính ánh sáng chói chang rực rỡ ấy đã làm thay đổi cuộc đời, thay đổi cả tình cảm của nhà thơ :
" Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.."
Khác hẳn với hồn thơ khi nhà thơ còn chưa bắt gặp ánh sáng lí tưởng, hồn thơ của Tố Hữu bây giờ rạo rực, vui sướng đến nỗi được so sánh với hình ảnh " vườn hoa " -> vườn hoa đầy đủ sắc màu, tràn ngập những âm thanh của tiếng chim, mùi hương của hoa lá... Đúng vậy, tâm trạng của nhà thơ đang tràn ngập rất nhiều cảm xúc ; có cái ngất ngây, say mê trước "hương thơm" của lí tưởng cách mạng, có cái rộn ràng, rạo rực vui sướng như tiếng chim kia.... Nhà thơ sử dụng các động từ mạnh , cũng các thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ so sánh và đặc biệt là lối vắt dòng từ câu thứ ba xuống câu thứ tư đã góp phần lớn trong việc biểu hiện cảm xúc của mình
(hứng khởi, phơi phới và đầy thiêng liêng..........)
Hợp : ( ND và NT chính của khổ )
Luận điểm 2 : Không chỉ dừng lại ở sự vui sướng khi bắt gặp ánh sáng lí tưởng mà ở khổ thơ thứ hai đã cho thấy được sự chuyển biến rõ rệt trong tình cảm, nhận thức của hồn thơ Tố Hữu. Khổ thơ cũng giống như một sự quyết tâm của cái tôi nhỏ bé muốn hoà nhập với cái ta chung rộng lớn của nhân dân." Tôi buộc hồn tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau mạnh thêm khối đời "Phân tích từ " tôi " với "mọi người ", trước khi giác ngộ lý tưởng cách mạng, TH thuộc tầng lớp tiểu tư sản ( luôn đề cao cái tôi cá nhân ) , nhưng khi được giác ngộ lí tưởng , TH muốn " buộc " cái tôi nhỏ bé ấy với mọi người, muốn gắn bó cuộc sống mình với cuộc sống nhân dân. Chính từ buộc đã làm cho cái tôi và mọi người không còn khoảng cách... Không chỉ dừng lại ở việc buộc hồn tôi với mọi người mà nhà thơ còn muốn tình cảm, tình yêu thương của mình đc trang trải tới trăm nơi . Từ " Buộc " với " trang trải " trên bề mặt câu chữ là hoàn toàn đối lập nhau, nhưng chính hai từ đối lập như vậy đặt cạnh nhau mới làm nên triết lý sống " Gắn bó và san sẻ " ( Bình thêm , có.... mới có.... )
Khổ thơ sử dụng các từ " mọi người, trăm nơi, hồn khổ " nhưng không đối lập với cái tôi nhỏ bé của nhà thơ, bởi tình cảm, bởi phần hồn của nhà thơ đã được trải tới trăm nơi, k còn chỉ thuộc về riêng mình nữa. Trong câu thơ cho ta thấy được tình yêu thương của TH đặc biệt hướng đến những con người khốn khổ, những số phận thấp khổ bé họng, bị chèn ép trong xã hội ... chính khi phần hồn của tôi gần gũi với những con người như thế đã tạo ra một " khối đời " ( phân tích khối đời là gì, có sức mạnh như thế nào? , chú ý đến " tình đoàn kết " )
Hợp ( Nội dung và NT chính của khổ : NT điệp cấu trúc câu " để tình để hồn, tiểu đối, giọng điệu thiết tha, chân thành,.....)Luận điểm 3 : Mạch trữ tình chính trị của nhà thơ còn được tập trung ở khổ thơ cuối cùng, nói lên được chuyễn biến tình cảm vô cùng sâu sắc của TH mà ở đó mqh giữa nhà thơ với nhân dân, với mọi người là mqh " máu mủ, ruột thịt "
" Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ."
Câu thơ đầu tiên cho thấy mối quan hệ của nhà thơ với vạn nhà, là mối quan hệ " máu mủ ruột thịt thiêng liêng " ( Lại nói trước khi giác ngộ lí tưởng cách mạng, nhà thơ thuộc tầng lớp tiểu tư sản, tầng lớp coi trọng cái tôi cá nhân, có cái ích kỉ và hẹp hòi )
Ngay từ câu thơ thứ hai đã cho thấy được việc TH nhận thức được trách nhiệm của bản thân mình , nhà thơ đứng vào hàng ngũ những con người " sống vì nhân dân, vì đất nước " . tiếp nối " vạn kiếp phôi pha ", dẫn đầu cho vạn đầu em nhỏ " k áo cơm, cù bất cù bơ ", chính những em nhỏ như thế là đối tượng để TH hăng say hoạt động cách mạng, tiếp thêm sức mạnh cho TH bước vào cuộc say mê cho lí tưởng mình đã chọn. Điệp từ "là" được nhắc đi nhắc lại, nó vang lên một âm hưởng mạnh mẽ, kết hợp với các đại từ " con, em anh ' cùng các số từ ước lệ cho thấy nhà thơ đã cảm nhận được sâu sắc trách nhiệm của mình, cảm nhận được sự gắn bó và thân thiết của mình với đại gia đình quần chúng lao khổ .
Hợp chung và bình luận :
( Nội dung :
Nghệ thuật : sử dụng hình ảnh, động từ mạnh, biện pháp tu từ, ngôn ngữ giàu nhạc điệu lúc thể hiện sự sung sướng hạnh phúc, lúc lại lắng xuống trở nên trang nghiêm, thành kính.....)
Kết Bài : "Từ ấy" đã nói một cách thật tự nhiên nhuần nhụy về lí tưởng, về chính trị và thật sự là tiếng hát của một thanh niên, một người cộng sản chân chính luôn tuôn trào trong mình mạch nguồn của lí tưởng cách mạng.