Tôi phải chen lách mãi mới thoát khỏi đám đông ra khỏi nhà thờ, đi ven phía trước cái hồ và pho tượng màu trắng đứng giơ tay nom như đã được điêu khắc bằng một khối đường và ra được tới cái phố dài. Tôi có thể nhìn tới hơn nửa dặm về cả hai chiều và thấy ngoài tôi, người lính đội mũ có ngụy trang đi từ phía dưới phố lên, hai khẩu súng Sten sẵn sàng nhả đạn. Tôi nói hai người sống vì có một xác chết nằm ngay ở cửa, đầu gục xuống đường. Lọt vào tai tôi chỉ có tiếng nhặng vo ve và tiếng phlích phlắc của bước chân những người lính đi xa dần. Tôi ngoảnh mặt, bước nhanh qua xác chết. Vài phút sau, quay lại phía sau, tôi thấy chỉ còn tôi và cái bóng, và tai tôi không nghe thấy gì khác ngoài những tiếng động tự tôi gây ra. Tôi có cảm giác rằng mình là cái bia trên trường bắn. Tôi chợt nghĩ nếu có sự gì xảy ra với mình trong cái phố này, thì hàng giờ sau người ta mới biết và những con nhặng có đủ thì giờ để bu tới.
Khi đã vượt qua được hai con kênh, tôi rẽ vào con đường dẫn tới một nhà thờ. Một chục người mặc áo dù rằn ri, ngồi trên đất, trong khi hai sĩ quan đang tra cứu tấm bản đồ. Không có ai lưu ý tới tôi khi tôi nhập bọn. Một người lưng đeo chiếc máy bộ đàm có cần ăng ten dài, nói:
- Bây giờ có thể tới đó được rồi.
Tôi dùng thứ tiếng Pháp tồi hỏi xem có thể đi theo họ không. Một trong những điều thuận lợi trong cuộc chiến tranh này là bộ mặt của người Âu tự nó là một tấm hộ chiếu để tới chiến trường, người ta không thể nghi một người Âu là kẻ làm tay chân cho địch.
- Anh làm gì? - viên trung uý hỏi.
- Tôi viết những bài báo về chiến tranh.
- Người Mỹ à?
- Không, người Anh.
- Đây chỉ là một cuộc hành quân nhỏ - hắn nói - nhưng nếu anh muốn đi cùng chúng tôi...
Anh ta định lấy mũ của mình đưa cho tôi.
- Không - tôi nói - cái này là để cho những người đánh nhau.
- Tuỳ anh.
Chúng tôi đi vòng sau nhà thờ, theo hàng dọc, trung úy đi đầu và dừng lại một lát khi tới bờ một con sông đào, để người lính mang máy bộ đàm có thể liên lạc với hai tốp đi tuần ở hai bên. Đạn súng cối bay qua đầu chúng tôi để nổ xa ngoài tầm mắt. Chúng tôi đã lấy thêm người khi đi gần nhà thờ và quân số đã lên non ba mươi người. Viên trung uý khẽ giảng cho tôi, ngón tay chỉ trên bản đồ:
- Có người báo là có ba trăm địch trong làng này. Chúng tập hợp để phục kích đêm nay. Chúng tôi không rõ thực hư. Chưa có ai phát hiện ra họ cả.
- Cách đây bao xa?
- Ba trăm mét.
Một vài tiếng được truyền vào bộ máy vô tuyến điện, rồi chúng tôi tiếp tục cuộc hành quân một cách lặng lẽ. Bên phải là con sông đào thẳng tắp, bên trái là những lùm cây là là mặt đất, đến những thửa ruộng, rồi lại đến những lùm cây. "Đường thông rồi", viên trung uý vừa nói thì thào, vừa khoát tay làm hiệu khi chúng tôi tiếp tục đi. Bốn mươi mét sau là một con lạch, với cái gì còn lại của một cây cầu (một tấm ván không có tay vịn), khiến chúng tôi phải dừng lại. Viên trung uý ra hiệu cho mọi người dàn ra và chúng tôi vào vị trí, ngồi xổm trước mảnh đất lạ dải ra bên kia cầu. Mọi người nhìn xuống nước, rồi như nhận được một mệnh lệnh, nhất tề quay mặt đi. Lúc đầu tôi không nhìn thấy cái gì họ đã thấy, nhưng khi đã thấy thì óc tôi, không hiểu tại sao lại nhớ tới những ngày đã qua, tới tận khách sạn Sale, tới những anh con trai mặc giả gái, tới những binh sĩ trẻ huýt sáo tới Pyle khi y nói: "Không hợp với cô ta".