8. Bộ Can là cái lá chắn, họăc là cái dụng cụ dùng để dựng giáo mác thời xưa. Nay đã biến hình chữ, khó nhận ra, tuy nhiên nó cũng rất đơn giản, chỉ có 3 nét, nên cũng khá dễ nhớ.
Bộ Công vẽ hình cái thước thợ (giống như thước T ngày nay) 1 dụng cụ để lấy góc vuông của người thợ TQ cổ đại. Nếu bạn nào có chuyên môn về xây dựng sẽ dễ dàng hình dung ra hơn.
9.Bộ Thị vẽ hình 1 cái bàn thờ thời tiền sử (họ dùng 1 mặt đá làm mặt bàn, chụm 3 khúc gỗ làm chân, )nên bộ Thị hiện nay viết : nét trên cùng là thức ăn cúng tế, nét ngang thứ 2 là mặt bàn thờ, 3 nét có chiều thẳng là vẽ chân bàn. bộ Thị hiện có 2 cách viết được chấp nhận: 示礻
10. Bộ Ngọc vẽ 1 chuỗi ngọc , cổ văn viết Ngọc玉và Vương 王giống nhau, sau này người ta mới thêm 1 chấm nhỏ vào bộ Ngọc để phân biệt với chữ Vương, Rất nhiều người học chữ Hán thường nhầm là bộ "Vương" thực ra, không hề có bộ Vương, chỉ có bộ Ngọc, bộ ngọc khi nằm trong các chữ Hán phức tạp, có hình dạng của chữ Vương . VD: 珍珠,琪,瑜,琦,珀,玻璃,
Bộ Bối vẽ hình cái vỏ sò, hai nét dưới cùng là hai cái khớp trên vỏ con sò biển. Người TQ cổ đại trao đổi hàng hóa bằng vỏ sò, họ dùng vỏ sò thay thế tiền. Do vậy, Bối có nghĩa mở rộng là tiền bạc, đồ quý hiếm, của báu, vd trong tiếng việt : Bảo bối,
Qua 1 thời gian dài biến hình, nên bộ Bối khó nhận ra được hình dạng vỏ sò, nhưng nó thường nằm trong các chữ chỉ về tiền bạc, mua bán, trao đổi, bồi thường v.v
Câu 61-70 Gồm 19 Bo:
豆
Dòu
鬯 – 酉
chàng – yǒu
衣 – 巾
yī – jīn
又 – 止
yòu – zhǐ
乙 – 虫
yǐ – chóng
隹 – 羽
zhuī – yǔ
冂
jiōng
囗 – 凵
wéi – qiǎn
支 – 采
zhī – cǎi
几 – 聿 – 辛
jǐ – yù – xīn
61. ĐẬU (豆) là bát đựng đồ thờ
62. SƯỞNG (鬯) chung rượu nghệ, DẬU (酉) vò rượu tăm.
63. Y (衣) là áo, CÂN (巾) là khăn
64. HỰU (又) bàn tay phải, CHỈ (止) chân tạm dừng.
65. ẤT (乙) chim én, TRÙNG (虫) côn trùng
66. CHUY(隹) chim đuôi ngắn, VŨ (羽) lông chim trời.
67. QUYNH (冂) vây 3 phía bên ngoài
68. VI (囗) vây bốn phía, KHẢM (凵) thời hố sâu
69. PHỐC (攴) đánh nhẹ, THÁI (采) hái rau
70. KỶ (几) bàn, DUẬT (聿) bút, TÂN (辛) dao hành hình.