Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện - Tập 1 - Quyển 1 - Truyện các hậu phi

389 4 0
                                    

Triệu Tổ(9) Tĩnh Hoàng Hậu

(9) Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế (1529) Nguyễn Kim.

Bà họ Nguyễn họ Nguyễn khác) tiên tổ là người huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, sau dời đến ở Quý huyện(10) tỉnh Thanh Hóa. Cha là Minh Biện, làm quan đời Lê đến Đặc tiến, Phụ quốc Thượng tướng quân, Thự vệ sự (năm Minh Mạng thứ 4) (1823) truy phong làm Hựu chính phù bình trung đẳng thần. Anh là Ư Tỵ cũng làm quan nhà Lê đến Thái phó Uy quốc công. Hậu lấy Triệu Tổ Hoàng Đế ta, sinh được một con trai là Thái Tổ Hoàng Đế, mùa xuân tháng Giêng (không nhớ năm) bà mất. Đời truyền là táng chung vào lăng Trường Nguyên ở núi Thiên Tôn, tỉnh Thanh Hóa.

Năm Giáp Tý (1744), Thế Tông Hoàng Đế(11) năm thứ 6, truy dâng tôn thụy là Từ Tín Chiêu Ý Đức Phi, sau lại thêm hai chữ Hoằng Nhân".

(11) Thế Tông Hiếu Vũ (1738-1764) Nguyễn Phước Chu.

Năm Bính Dần (1806), Gia Long thứ 5 lại truy tôn là Từ Tín Chiêu Ý Hoằng Nhân Thục Đức Tĩnh Hoàng Hậu.

Bài sách văn đại lược nói: Khôn nguyên to sáng, đều sánh với đức Kiền. Hậu đức thuần toan cho nên hay giúp chúa; biểu hiện tôn sùng cử hành mọi lễ. Kính nghĩ, Từ Tín Chiêu Ý Hoằng Nhân Nguyễn Đức Phi điện hạ đức kính êm đềm, tiếng tốt vang dậy. Con cháu đông như chung tư(12) đàn đầy nhà cửa. Siêng năng dậy từ gà gáy, chăm sóc gia đình. Cho nên, nay nhờ Phước to; càng thêm sáng rộng. Nết tốt công cao, biểu dương sao dám để chậm. Vậy kính làm sách vàng, dâng tôn hiệu là Từ Tín Chiêu Ý Hoằng Nhân Thục Đức Tĩnh Hoàng Hậu, thờ chung vào Triệu Miếu.

(12) Kinh Thi có thơ"chung tư", tán tụng hậu phi, vợ Chu Văn Vương có nhiều con. Chung tưlà châu chấu, loại côn trùng rất nhiều con    

Thái Tổ Gia Dụ(13) Hoàng Hậu

(13) Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế (1558 -1612) Nguyễn Hoàng.

Bà họ Nguyễn - (họ Nguyễn khác) sự tích không rõ. Bà sinh một trai là Hy Tông Hoàng Đế. Mùa hạ tháng 5 (không nhớ năm) bà mất, táng ở lãng Vĩnh Cơ (thuộc sơn phận Hải Cát Gia Long năm thứ 7 (1808) mới truy dâng tên lăng. Các lăng sau đây cũng thế. Năm Giáp Tý (1744) Thế Tông Hoàng Đế năm thứ 6, truy dâng thụy tôn là Từ Lương Quang Phục Ý Phi, sau lại thêm hai chữ "Minh Đức". Năm Bính Dần, Gia Long thứ 5 lại truy tôn làm Từ Lương Quang Thục Minh Đức Ý Cung Gia Dụ Hoàng Hậu. Bài sách văn đại lược rằng: giương oai cầm cây việt cờ mao, định yên thế nước, thực bởi thánh công, trong sáng như ngọc cư ngọc vũ, chỉnh đốn việc nhà đều nhờ hậu đức. Kính nghĩ, Từ Lương Quan Thục Minh Đức Nguyễn Ý Phi điện hạ: thánh sánh đối với thánh, đến ở ấp mới này. Khuyến tướng sĩ cần lao ở hàng trận, nêu đức, tính trinh tĩnh ở đình vi. Đức hóa khắp nước nhà, Phước trạch nhuần cháu chắt. Cho nên, nay trên nhờ bóng cả, thêm sáng tốt xưa. Coi phước đức này, dám dâng sùng báo. Kính làm sách vàng, dâng tôn hiệu là Từ Lương Quang Thục Minh Đức Ý Cung Gia Dụ Hoàng Hậu, thờ chung vào Thái Miếu.

Hy Tông Hiếu Văn(14) Hoàng Hậu

(14) Hi Tông Hiếu Văn Hoàng Đế (1613-1634) Nguyễn Phước Nguyên.

Đại Nam Chính Biên Liệt TruyệnNơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ