Chapter 6: Điền trang Sutherland

93 6 0
                                    

Trời mưa rả rích, những đám mây xám xịt trên bầu trời khiến không khí thêm phần ảm đạm và buồn bã. Tôi ngồi thu mình trên chiếc ghế đệm cứng trên xe lửa, tựa đầu vào thành cửa sổ và mơ màng với những ý nghĩ. Ngài Holmes ngồi bên cạnh tôi, cái nhìn ông bình thản và lạnh lùng như mọi ngày và ý chí cùng năng lượng tuyệt vời của ông giúp ông vượt lên trên tất cả những ảnh hưởng xung quanh. Ông im lặng khi tàu bắt đầu lăn bánh và giữ yên trạng thái đó trong suốt quãng thời gian chúng tôi tới hạt Kent.
Chuyến tàu đưa chúng tôi qua những con phố cổ kính của London, cùng những rạp hát, nhà thờ...,qua những ngõ hẻm, những dãy nhà tồi tàn nơi những người lao động nghèo khổ sinh sống; đi qua cả những cảnh phồn vinh và giàu có. Rồi cảnh vật trở nên tươi vui hơn khi tàu ra khỏi thành phố và tiến vào hạt Kent. Thiên nhiên nước Anh có một vẻ gì đó thật khác biệt: xinh đẹp, tươi mới với những gam màu ấm hòa quyện với màu của bầu trời xanh, những cánh đồng trải dài và những đàn gia súc gặm cỏ xa xa, những trang trại...Tất cả đều trông thật nên thơ. Tôi say mê ngắm nhìn tất cả những hình ảnh đó, cảm thấy tim mình đậm rộn vì sung sướng, một cảm xúc hân hoan mà tôi không thể cưỡng lại được. Với một thiếu nữ sinh ra và lớn lên ở thôn quê như tôi, cái cuộc sống ngột ngạt ở thành phố chả khác nào một chiếc lồng giam cầm và khi vừa chớm thấy một khoảng đồi dốc thoai thoải cùng màu xanh tươi của cỏ cây là tôi như một con chim được thả tự do, cuống cuồng vì hạnh phúc và mãn nguyện.
Ngài Holmes nấp sau những tờ nhật báo của ông suốt cuộc hành trình, nhưng khi tôi bắt đầu kể cho bác sĩ Watson nghe về thiên nhiên nước Mỹ, ông chui ra ngắm cảnh.
- Ông có hay rời thành phố như thế này không, thưa ông? - tôi hỏi với một nụ cười, cốt chỉ để bắt chuyện với vị thám tử. Ông khẽ gật đầu.
- Trước thì có, thưa cô. Nhưng công việc của tôi yêu cầu hoạt động trong phạm vi London nhiều hơn là những vùng thôn quê.
Bác sĩ Watson phủi nhẹ chiếc mũ mà ông đang đặt trên đùi, rồi nhìn vào bạn mình với một nụ cười hóm hỉnh:
- Và tôi còn nhớ rõ những ý kiến của anh về thôn quê, trong chuyến đi của chúng ta tới hạt Hampshire.
- A, anh có trí nhớ tốt đó, anh Watson ạ - ngài Holmes mỉm cười đáp lại, liếc nhìn ra cảnh vật bên ngoài - Nhưng ý kiến của tôi sẽ không thay đổi. Đừng nên nhìn tất cả mọi vật chỉ ở vẻ bề ngoài của nó, và dựa theo kinh nghiệm của bản thân, tôi có thể nói rằng chân lý này đúng trong mọi trường hợp. Nhưng nhà ga kia rồi. Ta chuẩn bị xuống thôi.
Cô Sutherland đã đứng tại sân ga với một chiếc xe ngựa đẹp và cặp ngựa kéo xe vạm vỡ, kiên nhẫn chờ chúng tôi. Cô vẫn phục sức trang nhã và thanh lịch như hồi sáng, nhưng khi chúng tôi đến gần hơn, cô hơi vén tấm mạng che mặt lên và tôi có thể thấy đôi mắt đẹp của cô đỏ lên như vừa khóc, và dấu vết của nước mắt vẫn còn lờ mờ trên gò má nhợt nhạt. Để ý cái nhìn của tôi, cô quay mặt đi và lồng ngực cô phồng lên trong một hơi thở sâu để lấy lại bình tĩnh:
- Tôi rất mừng vì ông đã tới, thưa ông - cô nói với ngài Holmes, chỉnh lại tấm mạng và chiếc nón rộng vành. Những ngón tay cô run run, và cho dù cô cố tình giấu, những cử động đó không qua mắt vị thám tử.
- Hãy nói tôi nghe chuyện gì đã xảy ra - ông nói với một sự sốt sắng
Cô khẽ gật đầu, và quay lại rảo bước về phía chiếc xe ngựa.
- Chúng ta hãy lên xe trước đã. Nói chuyện ở đây không hợp, thưa ông. Ông sẽ biết khi chúng ta về tới trang trại.
Ông yên lặng theo sau cô Sutherland, tôi và bác sĩ Watson đi phía sau ông. Sau khi tất cả chúng tôi đã ngồi trong xe ngựa, người đánh xe quất đôi ngựa và chiếc xe bắt đầu lăn bánh, tiến về phía điền trang Sutherland.
Ngôi nhà của ngài thẩm phán được xây theo kiến trúc cổ điển, trông đồ sộ và trang nghiêm. Cả một trang viên rộng thênh thang, với hàng rào cao ngăn cách với khu vực lân cận và khu rừng phía sau lưng. Tuy điền trang này nằm tại nơi khá biệt lập, cách xa thị trấn và cuộc sống của con người, nhưng dựa theo những hiểu biết mà tôi đã có từ cuộc sống nơi thôn dã, nó cũng không thể giúp gia chủ tránh khỏi những tai họa hay sự đe dọa từ bên ngoài. Pháp luật không có cánh tay đủ xa để với tới tận những vùng quê thế này, và bất cứ một hành động tội ác nào cũng có thể diễn ra tại đây mà không hề ai hay biết, cũng như không một ai quan tâm. Tôi nhớ lại những câu chuyện mà ông tôi thường kể cho tôi nghe khi tôi còn nhỏ, về quãng thời gian đầy khó khăn khi ông mới bắt đầu xây dựng cơ nghiệp, chiến đấu để bảo vệ đất đai và tính mạng của mình khỏi tay những kẻ xấu lăm le đòi cướp đi tất cả. Và ông không thể tìm kiếm sự giúp đỡ từ bất cứ ai, bởi ông ở một nơi quá xa cuộc sống văn minh. Tôi liếc nhìn ngài Holmes và nhận thấy ông cũng quan sát xung quanh một cách chăm chú, trước khi chúng tôi theo cô Sutherland vào trong nhà.
Chúng tôi bước vào trong phòng khách rộng, sang trọng và lộng lẫy với bàn ghế và đồ đạc đắt tiền. Quả thật ngài thẩm phán có một óc thẩm mĩ và thói quen tiêu xài khá phung phí: một chiếc đèn trùm pha lê treo trên trần nhà, và ngọn lửa trong chiếc lò sưởi đồ sộ tỏa hơi ấm nóng khắp cả căn phòng. Một người phụ nữ đẹp, có lẽ chỉ tầm trung niên, với đôi mắt nâu sẫm hiền từ và đượm buồn, đứng dậy từ chiếc ghế bành bà đang ngồi và tiến về phía chúng tôi với những bước đi duyên dáng và êm ru. Tôi nhận ra ngay bà chính là phu nhân Sutherland. Bà nhẹ nhàng chào ngài Holmes cùng bác sĩ Watson, và nhìn tôi bằng ánh mắt ấm áp thân thiện - sự sắc sảo đã giúp bà nhận ra ngay tôi là một người cùng giai cấp. Ngài Holmes lịch thiệp cúi hôn bàn tay vị phụ nhân, rồi nhẹ nhàng ngồi xuống ghế khi bà mời. Tôi và bác sĩ Watson ngồi xuống theo, khi đó bà cất lời với giọng thanh thoát:
- Thưa quý ông, chắc ngài là thám tử Sherlock Holmes nổi tiếng mà Catherine đã nói với tôi?
- Vâng, thưa bà - ngài Holmes nhã nhặn đáp - con gái bà đã mời chúng tôi đến đây vì một vấn đề rắc rối.
- Tôi không biết phải làm gì đây để giúp chồng tôi. Tôi không biết chuyện gì đang xảy ra nữa và ông ấy cứ cứng đầu không chịu nói. Lại một bất hạnh vừa đến nữa với gia đình chúng tôi. Gần trưa nay ông nhà tôi nhận được một lá thư, và đã gục xuống bất tỉnh khi vừa đọc nó. Tôi cùng người hầu sau đó đã khiêng ông ấy về phòng ngủ, và ông ấy giờ vẫn chưa tỉnh lại.
Ngài Holmes nhíu mày lại và ông hơi chồm về phía trước:
- Một lá thư? Ai đã gửi nó cho ông nhà?
- Một thằng bé giữ ngựa đưa cho tôi, thưa ông. Nó đây.
Bà đưa cho chúng tôi một mảnh giấy lấy ra từ phong bì thư, trên đó chỉ vẻn vẹn một dòng chữ: "California, 1854. Chúng tôi đang ở đây".
Khuôn mặt phu nhân Sutherland nhợt nhạt khi bà hướng cái nhìn tuyệt vọng về phía chúng tôi:
- Tôi không hiểu một chữ nào trong đó cả. Nó nghe như một trò đùa quái ác của kẻ nào đó đã biết được những bất hạnh của gia đình tôi, và nghĩ ra việc gửi một lá thư như thế này.
Tôi lắc đầu, nhìn vào mảnh giấy viết thư sơ sài và thô kệch, lề giấy bị rách chứng tỏ nó đã bị xé ra từ một quyển sổ. Ngài Holmes ngắm kĩ lá thư và dùng kính lúp soi những nét chữ, rồi đưa mặt giấy lên mũi ngửi. Đôi mắt xám sắc bén của ông sáng lên, ánh mắt của một con chó săn khi đánh hơi được mùi của con mồi mà nó đang săn đuổi.
- Cô nghĩ sao về tuồng chữ này, cô Roberts? - ông hỏi, đưa mảnh giấy cho tôi. Tôi cầm lấy nó cẩn thận và nhìn chăm chú.
- Đây là nét chữ của một người đàn ông, tôi đoán vậy. Khá cứng nhắc, nhưng tôi không thấy có điểm đặc biệt nào.
- Nếu cô quan sát kĩ...- ông nâng lá thư lên ngang tầm mắt mình - thì cô sẽ thấy rằng đây là chữ của một người thuận tay trái. Hắn là một kẻ to lớn, vạm vỡ và có đôi tay chắc khỏe. Hơn nữa, tôi đoán hắn còn là một thủy thủ lành nghề.
- Làm sao anh có thể kết luận được điều đó? - bác sĩ Watson hỏi, ngạc nhiên.
- Đơn giản thôi. Tôi ngửi thấy mùi xì gà rất nặng, loại mà các thủy thủ đi biển hay hút. Thêm nữa, vết bẩn trên giấy này là vết loang của rượu rum. Từ đó, tôi suy luận ra người viết thư là một thủy thủ đã lâu năm trong nghề và có sức khỏe phi thường.
- Tôi hiểu rồi. Vậy còn về California? Tôi đoán đó là địa danh của vùng nào đó tại nước Mỹ?
- Đó là một tiểu bang, thưa ông - tôi mỉm cười nói - Tôi đoán đây chính là nơi mà ngài thẩm phán Sutherland đã từng sống khi ông còn trẻ. Thưa phu nhân, chồng bà đã bao giờ kể bà nghe về quãng thời gian ông từng ở bên Mỹ chưa?
Bà Sutherland lắc đầu, vò nhầu chiếc khăn tay trong tay mình, một dấu hiệu rõ ràng của sự bối rối.
- Không, ông ấy không hề kể cho tôi gì hết - bà nói sau vài phút im lặng - ông ấy giấu kín bất cứ điều gì liên quan đến quá khứ của ông, từ ngày đầu chúng tôi yêu nhau cho đến giờ.
Ngài Holmes lắc đầu với vẻ không hài lòng, lông mày ông chau lại:
- Và bà chưa từng một lần thắc mắc? Trong một cuộc hôn nhân cần phải có sự tin tưởng lẫn nhau, thưa phu nhân.
- Tôi luôn tin tưởng chồng tôi và chưa bao giờ nghi ngờ ông ấy, thưa ngài Holmes - bà thốt lên, những giọt nước mắt long lanh trong đôi mắt đẹp chỉ trực tuôn trào - ông ấy luôn yêu tôi và Kate của chúng tôi, và ông ấy là một người chồng tuyệt vời. Chúng tôi chưa từng cãi vã, dù chỉ một lần, trước đó và đến giờ vẫn vậy.
Những xúc cảm và tình yêu trên khuôn mặt bà chứng tỏ rõ ràng rằng bà nói thật. Tôi cảm thấy cảm phục người phụ nữ nhỏ nhắn này, bởi tình yêu thương mà bà dành cho chồng con lớn hơn bất cứ điều gì trên đời. Lúc đầu khi mới bước vào phòng, tôi đã để ý bức ảnh gia đình lớn treo trên tường nhà, hình ảnh bà và cô Sutherland, khi đó còn nhỏ, tươi cười, và đứng bên cạnh họ là ngày thẩm phán Sutherland, một người đàn ông to cao, điển trai với cái nhìn khá nghiêm nghị, có phần u uất. Tôi nghĩ mình đã từng thấy cái nhìn này khi xưa, cái nhìn trong mắt cha tôi hai năm về trước vào ngày mà ông tôi mất.
- "Chúng tôi"? Vậy là có nhiều người - bác sĩ Watson nói, nhíu mày - Tôi đoán có lẽ là hai người, gã thủy thủ này và kẻ đồng hành cùng hắn, người mà chúng ta chưa biết.
Cô Sutherland, từ lúc đầu tới giờ vẫn im lặng, giờ đứng dậy khỏi chỗ ngồi và tiến về phía chúng tôi:
- Vậy là những kẻ đó đang săn đuổi cha tôi! Chúng sẽ giết ông ấy, thưa ngài Holmes - cô thốt lên, giận dữ - Làm ơn hãy giúp chúng tôi, hãy nói cho tôi biết tôi và mẹ tôi có thể làm được gì để giúp ông.
Ngài Holmes chậm rãi đứng dậy, và tôi thoáng thấy một ánh lạnh lùng trong mắt ông khi ông cẩn thận gấp lá thư lại:
- Ngài thẩm phán sẽ được an toàn chừng nào tôi còn ở đây, thưa cô Sutherland, và chúng tôi cũng sẽ bảo vệ cô và phu nhân. Giờ nếu không phiền thưa cô, chúng tôi có thể xem qua phòng ngủ của cha cô? - ông điềm tĩnh hỏi.
Cô Sutherland lúc này đã bình tĩnh trở lại, hai gò má đỏ dừ vì sự bồng bột của mình. Tôi nhìn người phụ nữ với sự cảm thông, nhưng cô vội quay đi:
- Xin mời các ông đi theo tôi - cô nói, và bước về phía cầu thang dẫn lên tầng trên của căn nhà. Ngài Holmes, bác sĩ Watson và tôi theo sau cô.
Căn phòng của ngài thẩm phán Sutherland ảm đạm và buồn bã, lửa trong lò sưởi trong phòng vẫn còn cháy leo lắt và chúng tôi có thể thấy chất đống những giấy, sổ ghi chép, sách báo và nhiều tài liệu khác đã cháy tan, những mảnh tro rải khắp phòng. Ngài Holmes nhấc chiếc cời lửa để gần đó và cẩn thận cời đống giấy tờ, nhưng những gì sót lại không đủ để chúng tôi có thể tìm được bất cứ thông tin gì từ chúng.
Cửa sổ được đóng kín và chiếc rèm màu đen ngăn bất cứ ai tò mò nhìn vào từ bên ngoài. Thế này cũng đủ cho chúng tôi thấy được nỗi sợ hãi và mối đe dọa đến tính mạng của ngài Sutherland lớn đến mức nào.
- Cửa sổ này nhìn ra đâu vậy? - tôi hỏi, kéo tấm rèm lên. Hai cánh cửa sổ đã bị đóng đinh khóa chặt. Cô Sutherland khẽ thở dài, lắc đầu.
- Ông ấy bít nó lại đã một tuần nay rồi. Trước đó nó mở nhìn ra cánh rừng giáp với trang trại của chúng tôi.
"Khu rừng ư?", tôi thầm nghĩ. Ngài Holmes và bác sĩ Watson còn đang mải tập trung vào căn phòng của ngài thẩm phán cùng những vật dụng của ông ta nên tôi im lặng rời khỏi phòng mà không bị phát hiện. Tôi cần xác thực sự nghi ngờ của mình.
Mặt đất ẩm ướt và nhão với bùn khi tôi dạo bước qua khu vườn để vòng ra chỗ chuồng ngựa và sân sau. Khi tôi bước tới một góc quanh dẫn tới bãi chăn thả, một tiếng gầm gừ khá lớn phát ra phía sau lưng tôi. Một con chó nòi dữ tợn và to khủng khiếp, cặp mắt ngầu lên với hàm răng sắc nhe ra đói ngấu, tiến về phía tôi. Hai bên sườn hóp của con vật phập phồng, rõ ràng đang đợi cơ hội để xông tới và ngoạm lấy cổ tôi với bộ hàm lớn của nó. Tôi đứng yên bất động, cố không chạy mặc dù tim tôi đang đập mạnh và hơi thở tôi ngắn và gấp gáp, theo bài học mà cha tôi đã dạy khi đối mặt với những con chó dữ, sói và gấu: không bao giờ được quay lưng và chạy. Tiếng gầm gừ của con chó ngày càng lớn, và tôi chỉ có thể đứng im và cầu nguyện.
- A, đồ khốn! Lại đây nào, con chó chết dẫm - tiếng ồm ồm của một người đàn ông hét to và bước chân gấp gáp của ông ta tiến về phía chỗ tôi và con chó. Ông ta vung cây gậy to tướng lên trước mặt con vật, và nó ngay lập tức cúp đuôi, nhảy lùi lại rồi vọt thẳng ra cánh đồng, nhảy qua hàng rào cao và biến mất phía sau chuồng cừu. Vị cứu tinh của tôi gằn giọng, hạ cây gậy xuống và quay về phía tôi với vẻ không mấy thân thiện:
- Quý cô không nên đi lung tung, nhất là khi cô không phải là người làm ở điền trang này - ông ta nói, nheo nheo cặp mắt nhìn tôi từ đầu tới chân - Cô đi cùng với hai vị đó, phải không?
- Vâng, thưa ông - tôi đáp, đã vững tâm lại. Ông ta là người làm ở đây, và ông ta có vẻ như là một người tốt. Vậy tôi không có lí do gì để sợ hãi trước thái độ hằn học của ông. 
Một ông già nhỏ nhắn, nghiêm nghị và đạo mạo, có vẻ như là một quản gia lâu năm trong gia đình. Vẫn với cái nhìn săm soi và sắc sảo như ánh mắt của một con diều hâu, ông ta khịt mũi:
- Cô không phải là người Anh, thưa quý cô.
- Không, thưa ông - tôi bình tĩnh đáp - Tôi từ Mỹ tới.
- Nhưng cô nói giọng Anh khá thuần thục. Rất thuần thục, cô gái trẻ.
-  Bởi vì mẹ tôi là người Anh, thưa ông. Bà theo cha tôi về Mỹ sống sau khi kết hôn.
- A, ra vậy. Tôi đã đoán như thế - ông ta nở một nụ cười, và tự dưng nó khiến tôi cảm thấy không thoải mái. Nhưng ông dừng ngay và trở lại với thái độ cáu kỉnh lúc đầu.
- Tôi đã theo hầu phu nhân từ khi bà ấy mới còn là một đứa trẻ, và chưa bao giờ thấy bà ấy buồn cho đến tận giờ. Con chó đó là do bà sai tôi đi lùng mua về, theo ý muốn của ông chồng bà. Một con chó khá, khôn ranh và cực kì dữ tợn, không nghe ai hết ngoài tôi. Ngài thẩm phán giao nó cho tôi để tôi huấn luyện, dặn tôi chỉ cho nó ăn hai ngày một bữa, và đến đêm thì thả nó ra. Nhưng ban ngày nó vẫn giật đứt xích trốn ra ngoài luôn, và vô phúc cho con gà nào quanh quẩn trong tầm răng của nó.
Tôi cảm thấy ớn lạnh dọc sống lưng. Nhưng ông già chỉ cười, liếc thấy nỗi sợ trong mắt tôi:
- Phụ nữ các cô luôn hoảng lên mỗi khi tôi kể những chuyện như vậy. Có con chó cũng thấy yên tâm. Sẽ chẳng có thằng trộm nào muốn bị nó xé xác đâu, thưa cô. Con vật đó đáng ngàn vàng, tôi thế trong đời mình chưa từng thấy một con chó nào hung dữ như nó. Cứ như chó sói ý. Cô phải nhìn thấy lúc nó cắn xé một tảng thịt bò ấy. Cứ thử thằng cha xấu số nào đó lảng vảng quanh đây lúc tối trời...
- Tôi hiểu rồi, thưa ông - tôi vội ngắt lời ông ta, không phải vì ghê sợ bởi câu chuyện, mà bởi tôi chỉ muốn thoát ra khỏi cuộc đối thoại càng nhanh càng tốt - Cảm ơn ông vì đã cứu mạng tôi lúc nãy. Nếu ông không xuất hiện kịp thời, tôi không biết mọi chuyện rồi sẽ ra sao.
Ông ta cười một cách kẻ cả, hài lòng trước sự biết ơn của tôi:
- Cô nên quay trở lại vào trong đi, cô gái trẻ. Không hay ho gì khi cô lảng vảng quanh đây đâu. Giờ thì xin tạm biệt, thưa cô.
Sau khi người quản gia đi khỏi, tôi thở phào nhẹ nhõm. Và giờ khi có con chó khủng khiếp kia đang loanh quanh đây, tôi không thể thực hiện kế hoạch của mình. Nếu những kẻ đang đe dọa ngài thẩm phán không thể tiếp cận ông ta vào ban đêm bởi vì con chó trông nhà dữ tợn là vật cản giữa chúng và con mồi của chúng, chúng có thể quan sát mục tiêu từ xa, qua khung cửa sổ. Chúng biết vị trí căn phòng riêng của ngài Sutherland, và cánh rừng sẽ giúp chúng ẩn nấp khỏi những cặp mắt nghi ngờ. Nhưng kế hoạch của chúng đã bị phát hiện, và cánh cửa sổ được bít kín. Mạng lưới chúng vây quanh nạn nhân của mình khá chắc chắn, nhưng vì lí do nào đó chúng chưa tấn công. Nếu như ngài Holmes đã suy luận và theo những gì tôi biết về thủy thủ, gã thủy thủ này có thể đột nhập vào trong nhà theo một con đường nào đó và dễ dàng hạ sát những người trong gia đình, bởi những gì chúng muốn là trả thù ngài thẩm phán. Nhưng chúng vẫn để ông ta sống. Không, giết ông ta không phải là mục đích của chúng. Chúng đang tìm kiếm một cái gì đó, và ngài Sutherland là người duy nhất có câu trả lời. Và chúng phải hành động cực kì cẩn thận.
- Cô Roberts!
Tôi quay lại. Bác sĩ Watson và ngài Holmes tiến về phía tôi, vẻ lo lắng trên khuôn mặt họ làm tôi cảm thấy đôi chút  tội lỗi.
- Ơn trời cô không sao - bác sĩ nói và thở phào, nhẹ nhõm. Tôi khẽ gật đầu, rồi mắt tôi đụng phải ánh mắt của ngài Holmes. Tia nhìn sắc lẹm trong chúng làm tôi chùn lại. Cứ như ông ấy có thể đọc được tất cả ý nghĩ của tôi vậy.
- Cô ổn chứ, thưa cô? - ông hỏi với giọng ân cần.
- Vâng, thưa ông. Tôi không sao. Ngài thẩm phán nuôi một con chó khá dữ tợn, và nó suýt tấn công tôi.
Vị thám tử nhìn tôi, tò mò. Tôi hiểu được ngay cái nhìn đó của ông. Và tôi kể lại tất cả những gì đã xảy ra. 
Ngài Holmes im lặng khi tôi dứt lời, đôi lông mày nhíu lại. Tôi hi vọng mong manh rằng ông cũng có suy nghĩ giống tôi. Nhưng ông chỉ rút chiếc đồng hồ bỏ túi ra và xem giờ.
- Cô Sutherland nói rằng có một quán trọ khá tốt ở trong thị trấn. Tôi nghĩ chúng ta nên tới đó và sắp xếp chỗ nghỉ trước, hai bạn nghĩ sao?
Tôi và bác sĩ Watson gật đầu. Vụ án chưa đi được tới đâu, nhưng tôi mong chúng tôi có thể tìm được những dữ kiện có ích hơn.

Sherlock Holmes: cuộc phiêu lưu của tiểu thư RobertsNơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ