- Vua tự xưng :
+ quả nhân: dùng cho tước nào cũng được.
+ trẫm: chỉ cho Hoàng đế/Vương.
+ cô gia: chỉ dùng cho Vương trở xuống.
- Vua gọi các quần thần : chư khanh, chúng khanh
- Vua gọi cận thần (được sủng ái) : ái khanh
- Vua gọi vợ (được sủng ái) : ái phi
- Vua gọi vua chư hầu : hiền hầu
- Vua, hoàng hậu gọi con (khi còn nhỏ) : hoàng nhi
- Các con tự xưng với vua cha: nhi thần
- Các con gọi vua cha: phụ hoàng
- Các con vua gọi mẹ: mẫu hậu
- Các quan tâu vua : bệ hạ, thánh thượng
- Các thê thiếp (bao gồm cả vợ) khi nói chuyện với vua xưng là : thần thiếp
- Hoàng thái hậu nói chuyện với các quan xưng là : ai gia
- Các quan tự xưng khi nói chuyện với vua : hạ thần
- Các quan tự xưng khi nói chuyện với quan to hơn (hơn phẩm hàm) : hạ quan
- Các quan tự xưng với dân thường: bản quan
- Dân thường gọi quan: đại nhân
- Dân thường khi nói chuyện với quan xưng là : thảo dân
- Người làm các việc vặt ở cửa quan như chạy giấy, dọn dẹp, đưa thư, v.v… : nha dịch/nha lại/sai nha
- Con trai nhà quyền quý thì gọi là : công tử
- Con gái nhà quyền quý thì gọi là : tiểu thư
- Đầy tớ trong các gia đình quyền quý gọi ông chủ là : lão gia
- Đầy tớ trong các gia đình quyền quý gọi bà chủ là : phu nhân
- Đầy tớ trong các gia đình quyền quý gọi con trai chủ là : thiếu gia
- Đầy tớ trong các gia đình quyền quý tự xưng là (khi nói chuyện với bề trên): tiểu nhân
- Đứa con trai nhỏ theo hầu những người quyền quý thời phong kiến : tiểu đồng
- Các quan thái giám khi nói chuyện với vua, hoàng hậu xưng là : nô tài
- Cung nữ chuyên phục dịch xưng là : nô tì
- Ngoài ra, đối với các quan còn có kiểu thêm họ vào trước chức tước, thành tên gọi. Ví dụ : Quách công công, Lý tổng quản, Lưu hoàng thúc…