Chương 2-4: Não bộ (5,6)

12 1 0
                                    

5. Vỏ não: leo tiếp lên các bậc thang tiến hóa

Khi chúng ta từ tủy sống đi tiếp lên phân hệ cao hơn và đi vào não, thảo luận của chúng ta đã tổng tập trung vào các khu vực thuộc não đảm nhiệm các chức năng tương tự như các chức năng khám phá được ở các loài sinh vật kém tiến hoá hơn. Bạn có lẽ đã tự hỏi: bộ phận nào trong não giúp con người hành động hữu hiệu nhất, và khiến cho loài người khác hẳn mọi loài vật khác? Những đặc điểm độc đáo ấy của bộ óc con người - cũng chính là những khả năng đã giúp bạn nêu ra được câu hỏi đề ra ở trên - gói trọn trong khả năng tư duy và ghi nhớ. Định vị chính của các năng lực này, cùng với nhiều năng lực khác, là vỏ não (cerebral cortex).

Vỏ não, đôi khi còn gọi là "não bộ đương đại" bởi vì nó mới hình thành tương đối gần đây trong hành trình tiến hoá của loài người, là một khối mô gấp nếp sâu, dợn sóng, và tạo vòng cuốn. Mặc dù chỉ dày khoảng 1/12 inch (# 2,2 mm), nhưng nếu căng phẳng ra vỏ não có thể phủ một diện tích rộng đến hơn 2 bộ vuông (# 929 cm2). Hình dạng thể chất này giúp cho diện tích bề mặt của vỏ não lớn hơn một cách đáng kể so với trường hợp vỏ não có dạng lỏng lẻo hơn và dễ xếp vào hộp sọ. Hình dạng này cũng tạo điều kiện cho các nơron nằm trong vỏ não được nối kết một cách phức tạp với nhau, cho phép việc nhập thông tin trong não đạt đến mức cao nhất, và do đó tạo điều kiện để xử lý các thông tin một cách tinh vi nhất.

Vỏ não gồm 4 phần chính được gọi là các thùy (lobe). Nhìn mặt bên của não, các thùy trán (frontal lobe) nằm ở vùng trung tâm phần trước của vỏ não, và thùy đỉnh (parietal lobe) nằm vùng phía sau các thùy trán. Các thùy thái dương (tempo- ral lobe) được tìm thấy ở vùng trung tâm phần dưới của não bộ, với các thùy chẩm (occpital lobe) nằm ở vùng phía sau các thùy thái dương. Bốn bộ thùy này về mặt vật thể được phân cách nhau nhờ các rãnh sâu được gọi là các rãnh vỏ não (sulcus- sulci). Hình 2-14a trình bày 4 vùng vỏ não.

Hình 1-14: Vỏ não: (a) Các cấu trúc vật chất chủ yếu của vỏ não được gọi là các thuỳ (lobes); (b) Hình này minh hoạ các chức năng liên quan đến các vùng đặc biệt của vỏ não.

Một phương cách mô tả khác về vỏ não là xem xét các chức năng liên quan đến một vùng nhất định của vỏ não. Hình 2-14b cho thấy các vùng chuyên biệt nằm trong các thùy, chúng liên quan đến các chức năng và vùng chuyên biệt trên cơ thể. Có ba vùng chính đã được phát hiện: vùng vận động, vùng cảm giác, và vùng liên hợp. Mặc dù chúng ta sẽ thảo luận từng vùng một cách riêng rẽ như thể chúng là những thực thể độc lập với nhau, nhưng hãy nhớ rằng phương thức tiếp cận này chỉ nhằm mục tiêu đơn giản hóa vấn đề: trong hầu hết các trường hợp, hành vi bị ảnh hưởng đúng lúc bởi nhiều cấu trúc và nhiều vùng trong não bộ hoạt động tương thuộc nhau. Ngoài ra, bên trong mỗi vùng còn có các phân vùng.

- Vùng vận động. Nếu nhìn vào thùy trán ở Hình 2-14b; bạn sẽ thấy một vùng in đen có tên là vùng vận động (motor area). Vùng vỏ não này chịu nhiều trách nhiệm trong vận động chủ ý của các bộ phận đặc biệt trong cơ thể. Thật vậy, một phần trong vùng vận động tương ứng với một vị trí đặc biệt trên cơ thể. Nếu cấy một điện cực vào một phần đặc biệt thuộc một vùng vận động rồi tạo một kích thích điện nhẹ, thì bộ phận tương ứng trên cơ thể sẽ có vận động ngoại ý. Nếu chúng ta dời điện cực sang một phần khác trong vùng vận động rồi kích thích nhẹ thì một bộ phận khác trên cơ thể tương ứng với phần mới này cũng sẽ vận động ngoại ý.

Tâm lý học căn bảnWhere stories live. Discover now