19 - Thiện căn, Phúc đức, Nhân duyên

0 0 0
                                    


Kính cha má,
Tu hành mà hiểu thấu được Phật pháp thì thấy lý thú, vững lòng tin, tinh tấn tiến bước. Mỗi lá thư, đầu tiên con đều nói một chút lý đạo. Cho nên, nếu đọc nhiều thư của con cũng thấy vui với nguồn đạo, thấm lần vào Phật pháp. Còn phần sau của thư thường con nói đến những điểm cụ thể cần thực hiện, cần cho cha má và cũng cần cho những ai muốn niệm Phật cầu sanh về Tịnh-độ. Con biết được hoàn cảnh của cha má, anh chị em, bà con, cô bác ở quê nhà rất khó khăn để nghe được Phật pháp, thành ra con phải dùng cách này để từng bước giải bày. Xin cha má cố gắng đọc kỹ. Cha hoặc má hãy bảo con cháu mỗi người thay phiên nhau đọc cho cha má nghe. Điều này rất có lợi vì nhờ vậy mà con cháu cũng hiểu được đạo, cũng có thể cùng phát tâm tu hành..... nhứt là người nào chưa tin Phật pháp thì cha má cứ nhờ đọc nhiều lần, biết đâu cha má cứu được người đó. Hễ cha má thích con cháu đọc thì con cháu cũng thích đọc cho cha má nghe, hễ có đọc thì có cơ hội hiểu.
Nếu khuyến khích con cái trong nhà đều niệm Phật thì chính cha má đã tạo được một công đức lớn. Nhờ đó mà thiện căn của chính mình tăng trưởng, và cái lợi ích thiết thực nhất là khi lâm chung mình đã có một số người hùng hậu vây quanh để hộ-niệm bảo vệ mình, có vậy mới tránh được cái nạn oán thân, trái chủ. Người niệm Phật cầu vãng sanh luôn luôn chuẩn bị chu đáo cho giờ phút lâm chung, đây là điều tối quan trọng, không thể lơ là được.
Xin đọc lại những thư nói về Hộ-Niệm cho thật kỹ, đừng sơ suất. Người mới tu hành, công phu chưa vững, muốn được "Đới Nghiệp Vãng Sanh" thì luôn luôn cần phải chuẩn bị một số người hộ-niệm lúc lâm chung, nếu không có người hộ-niệm rất dễ bị oán thân, trái chủ, hoặc nghiệp chướng phá hoại vào giờ phút chót làm mất phần vãng sanh.
Một người ở thế gian này mà có cơ duyên niệm được câu Phật hiệu là trong nhiều đời, nhiều kiếp ở quá khứ đã có căn lành phước đức rất lớn. Trong Kinh Vô-Lượng-Thọ, ông vua A-Xà-Vương-Tử khi nghe Phật thuyết về Thế-Giới Tây-phương Cực-lạc của Phật A-di-đà, ông bèn cùng năm trăm vị trưởng lão tùy tùng liền đồng dũng mãnh phát nguyện rằng tương lai sẽ tu thành Phật như Phật A-di-đà. Phật nói, nhóm người này trong tiền tiền kiếp đã có phước đức cúng dường tới bốn trăm ức đức Phật. (1 ức = 100 ngàn; 400 ức = 40.000 ngàn = 40 triệu). Đây là một phước báu vĩ đại, ở thế gian này không dễ mấy ai có được. Ngày nay chúng ta tìm một vị Phật để nhìn thử không có, thậm chí một vị Thánh A-La-Hán thôi cũng không thấy thì làm sao mà có được cái phước báu cúng dường cho bốn trăm ức Phật? Ấy thế mà trong kinh Phật nói nhóm người ấy chỉ được cái phước báu tối thiểu, cái tiêu chuẩn thấp nhứt để giúp cho họ tin được lời Phật, phát được tâm nguyện muốn thành Phật chứ chưa đủ để phát nguyện viên mãn thành Phật.
Lời Phát nguyện viên mãn thành Phật là: Nguyện vãng sanh Tây-phương Tịnh-độ. Nghĩa là người nào phát tâm nguyện cầu vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc thì tự nhiên họ đã có cái phước báu vượt hẳn cái phước báu cúng dường bốn trăm ức đức Phật. Vì nguyện thành Phật là lời nguyện cao cả, nhưng bao lâu để thành Phật thì mông lung vô cùng tận! Một triệu đời hay một triệu kiếp? Một tỷ kiếp hay vô lượng kiếp tu hành nữa để thành Phật đây?! Trong suốt khoảng thời gian vô cùng vô tận đó liệu còn đủ bản lãnh chống chọi với những thế lực hung hiểm không? Có giữ được chí nguyện đó không? Hơn nữa người tự tu thành Phật nhất định phải đoạn diệt rốt ráo tất cả nghiệp chướng, vọng tưởng, chấp trước, vô minh, tham, sân, si, mạn, kiến tư phiền não, trần sa phiền não, đoạn luôn cả bốn tướng: ngã, nhơn, chúng-sanh, thọ-giả, v.v... tới lúc đó may ra mới mong ngày thành Chánh-Giác. Cha má, anh chị em cứ tự nghĩ thử coi, liệu mình có làm nổi chuyện này không? Rất là khó!
Còn người niệm Phật nguyện vãng sanh Tây-phương Cực-lạc thì hoàn toàn khác, vì họ được đới nghiệp vãng sanh, một đời này họ có thể thực hiện được, một đời này thôi biết bao nhiêu người đã thành công rồi. Thử đếm sơ sơ nội trong vòng mười năm trở lại đây thôi mà có thể một vài trang giấy còn thiếu chỗ để ghi. Đây là sự thật. Người nào có duyên lành thấy được điểm này thì phải biết giựt mình tỉnh ngộ, hãy mau mau niệm Phật cầu vãng sanh Tây- phương, quyết định đừng chần chừ, đừng dùng dằng nửa ở nửa đi, đừng bán tín bán nghi. Nhứt tâm một lòng niệm Phật cầu sanh là được. Đây gọi là dễ. Một pháp môn tu hy hữu trên đời chỉ dành cho người nào có đủ thiện căn, phúc đức, nhân duyên. Đã gặp pháp môn này rồi mà để lỡ qua cơ hội, xin thưa thẳng thắn rằng, một tỷ đời sau chưa chắc sẽ được cái may mắn gặp lại Phật pháp để thực hiện mộng liễu sanh thoát tử.
Thưa cha má, cha thường nêu ra vấn đề thiện căn phước đức, cứ lo ngại là phải tu hành nhiều đời, nhiều kiếp, phải có thiện căn tối thiểu nào đó mới có thể đắc thành Phật quả chứ đâu phải dễ! Thì hôm nay, trong kinh Phật chỉ cho ta biết cái thiện căn tối thiểu đó chính là con số cúng dường bốn trăm ức Phật như trong kinh Phật nói. Con số này quả thật quá lớn! Thế nhưng một người có cái phước đức thiện căn lớn như vậy vẫn chưa đủ để họ Tín- Thọ-Phụng-Hành pháp môn niệm Phật, nghĩa là chưa đủ để thành Phật.
Thế thì liệu mình có được phước đức đó không? Thưa cha má, phước đức này không phải mình nghĩ mà có, mình tìm mà thấy, mình muốn mà được đâu. Nhưng cũng tức cười, nhiều khi chính mình đã có mà mình không hay biết. Vì sao? Vì thần thức của mình vẫn đang bị nhốt tù trong cái thân tứ đại, chân tâm đang chìm trong vô minh cho nên không thấy, không biết. Muốn biết mình có thiện căn vĩ đại hay không hãy lấy cái TÍN-TÂM của mình mà đo, lấy SỰ-PHÁT-NGUYỆN của mình mà lường, hãy coi thử mình có CƠ-DUYÊN gặp được câu A-di-đà Phật hay không thì biết. Ví dụ, trong gia đình mình khi con nói về niệm Phật, người nào khởi phát tín tâm trước hết, phát nguyện trước hết thì biết chắc chắn đã có thiện căn lớn hơn ai hết.
Người nào tín, tho,ï phụng, hành đầy đủ pháp môn niệm Phật thì biết chắc trong tiền tiền kiếp họ đã cúng dường tới bảy, tám, chín trăm... vô số ức Phật mà họ không hay, chứ không phải chỉ có bốn trăm ức đâu. Còn người nào tin nửa vời, hoặc không tin, thì biết là thiện căn của họ không nhiều hoặc là bị chướng ngại gì đó, chưa có cơ duyên thành Phật thành thục trong đời này. Họ muốn tu bồi thêm thiện căn, còn hơn năm trăm triệu năm nữa mới có một đức Phật nữa ra đời. Hãy tính nhẩm thử coi họ sẽ trải qua bao nhiêu kiếp năm nữa?!...
Đã có thiện căn thì sẽ gặp cơ hội vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc thành Phật, mới xui khiến có người điềm chỉ pháp môn niệm Phật. Kinh Phật đã nói như vậy. Bây giờ xem lại coi, phải chăng gia đình mình nhiều người đang được nghe nhắc đến danh hiệu A-di-đà Phật rồi, thì có lẽ trong gia đình mình cha má, anh chị em, bà con, cô bác trong vùng cũng có thể có khá nhiều người đạt đủ tiêu chuẩn mà không hay đó?! Xin đừng tự ngăn cản con đường vãng sanh mà đành cam chịu đọa lạc cha má ạ!...
Bây giờ, giả như có nhiều người cứ nghĩ rằng mình không đủ phước báu thì làm sao đây? Hãy nói với họ, đừng suy nghĩ nữa, cứ phát tâm niệm Phật cho nhiều đi, phát nguyện mỗi ngày niệm năm ngàn câu, rồi mười ngàn câu Phật hiệu, nếu cũng chưa thấy gì thì niệm hai mươi ngàn, ba mươi ngàn... cứ làm đi rồi họ sẽ tự thấy cái phước của họ lớn tới cỡ nào, có đủ tiêu chuẩn hay không sẽ biết liền. Chứ còn cứ ngồi đó than thiếu phước đức mà không chịu niệm Phật, thì tìm đâu ra phước đức đây? Cũng nên nhớ rõ một điều, là dù cho đã có đủ thiện căn phước đức nhưng chỉ muốn hưởng phước, không chịu phát tâm cầu vãng sanh thì cũng như không thôi. Thật là đáng tiếc!
Cha má đã già yếu rồi, con xin cha má hãy quyết chí giác ngộ đường đi, đừng phóng tâm tìm cầu những cái hão huyền của thế thái nhân tình nữa mà rốt cuộc phải chịu trầm luân. Con ở đây lâu lâu nhận được thư từ các cháu, anh chị em. Nghe sơ qua thì thấy có tu, nhưng đọc kỹ lại thì đường đi vẫn còn bị lạc. Đây không phải là cố tình hay bướng bỉnh, mà lại là vô ý lạc đường, thường lấy cái phụ làm chính, trong khi cái chính thì quên mất. Đây có lẽ, một là thói quen, nó cứ lôi cuốn vào đó. Hai là những thư con viết về không chịu đọc kỹ, cứ coi đại khái rồi bỏ qua.
Chính vì thế mà mỗi lần nhận thư thì con đều phát hiện ra sự "lạc nẻo". Nên nhớ, tu mà sai đường thì vừa tốn công sức, vừa làm giảm mất niềm vui, không những khó có lợi ích mà sau cùng đành thất bại. Ấy là do mình sơ ý chứ không đổ thừa cho Phật pháp không linh được.
Cho nên, tha thiết xin cha má, anh chị em, con cháu... hãy cố gắng nghe pháp cho nhiều, thiếu pháp thì tạm đọc những thư của con cho thật kỹ, có giờ rảnh đọc thêm nhiều lần thì tự nhiên hiểu. Ai còn mập mờ chỗ nào thì mạnh dạn viết thư hỏi, con sẽ trả lời thật rõ ràng cho. Người trong nhà có gì đâu mà ngại.
Muốn về được Tây-phương thì phải biết BUÔNG-XẢ cha má ạ. Buông-xả một phần, mình gần với Phật một phần, buông mười phần, gần mười phần. Không buông xả thì tự trói mình trong lục đạo luân hồi. Buông xả là quên đi những thứ vàng, bạc, nhà cửa, danh vọng, nhân nghĩa, tiếng thơm, tiếng thối... đừng để những thứ tục lụy này vướng bận tới mình nữa thì tự nhiên thấy Phật! Nghĩa là, thấy rõ ràng minh bạch nhưng xin đừng lưu luyến, đừng ham muốn, đừng vui khi có, đừng buồn khi mất, đừng cố nắm bắt chúng như trước giờ nữa, thì mình tự nhiên sẽ đi tới đất Phật trong đời này. Tuổi già thọ mạng mong manh như giọt sương đầu cành, quyết định phải dứt khoát chứ không thể chần chờ như tụi trẻ nữa cha má ơi! Nên nhớ, có khi mình muốn buông xả nhưng có những việc ngầm ý lôi kéo mình lại. Nhiều lúc hành động và tâm ý đều bỏ, nhưng hoàn cảnh, nhân duyên, con cháu, lại trói buộc mình lại đó.
Cho nên cần phải rất nhạy bén để ý mới thấy vấn đề. Nếu không, có nhiều thứ chi phối rất vi tế nó trở ngại việc vãng sanh. Con viết về cha má nhưng lại thường gởi về các anh chị em, là chính con muốn các anh chị em đọc trước đi để cùng hiểu, cùng thấy chữ "Đại-Hiếu" là quan trọng, để cùng nghĩ ra hướng giúp cho cha má tích cực hoàn thành đạo nghiệp. Rất nhiều thư con cứ lập đi lập lại những điểm then chốt là vì điều này. Xin hãy đọc thật kỹ đừng xem lấy lệ nữa.
Nên nhớ, có những việc làm thấy rất hay đối với thế tục, nhưng xét về mặt đạo lại trở thành vụng về, nếu không muốn nói là sai lầm! Ví dụ, có nhiều người cứ tới ngày lễ, ngày giỗ là làm đám, làm tiệc tưng bừng, giết heo, gà... để thết đãi. Sát sanh thì ác nghiệp nặng lắm, chuyện này hoàn toàn không tốt đâu! Có người thích uống rượu, thích một lon bia để ngủ cho ngon. Thế tục thì thấy ngon thật, nhưng về mặt xuất thế thì ngủ ngon trong hơi bia gọi là hôn trầm, càng hôn trầm càng gần với đường súc sanh trong mai hậu.
Uống rượu say là một trong năm giới cấm của Phật, (sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói láo, uống rượu). Người cứ uống rượu rất dễ gây tội ác, nếu không gây tội đi nữa thì tâm trí cũng thường bị hơi men làm u-ám, đời sau dễ chiêu cảm sanh làm súc vật, không tốt đâu! Giận dữ là nghiệp báo địa ngục, keo kiệt thì nghèo khổ, khinh người thì cô đơn, ghét người thì bệnh hoạn, ác thì thành quỷ, hiểm thì thành ma, v.v... tất cả đều không tốt! Hãy khuyên nhau liệng bỏ cho hết đi. Tu hành là quyết quét cho sạch những thứ riêng tư ích kỷ, để cho tâm mình càng ngày càng mở rộng ra. Thế thôi chứ có gì đâu.
Một chuyện nữa cũng nên nhắc thêm, là nhiều người thích tới chùa cầu xin phước lộc, cầu trúng số, cầu giàu có, cầu may mắn... Cầu đó không có ác tâm gì cả, nhưng càng cầu càng càng sai. Có nhiều vị Sư biết vậy mà gỡ không được. Các vị Sư thì gặp hoàn cảnh khó khăn, Phật tử thì không thường nghe pháp, thành ra cứ hễ tới chùa là lạy Phật cầu danh, cầu lợi. Có người ngày ngày cầu xin cho trúng độc đắc để cúng dường Phật!... Đó không phải là tu hành, mà là tạo nghiệp. Đừng nên hối lộ với Phật nữa mà có tội nặng. Chính lòng tham lam, tự-tư ích-kỷ, là cái hạnh nghiệp của loài ngạ quỷ, sống hàng vạn đời trong đói khát thèm thuồng, chứ có hay ho gì đâu mà cầu!
Hôm trước nhận được thư của cháu Tuyết, con anh chị Hai, cháu có nói "Ông Ngoại được Cậu, Dì tặng quà...". Cũng vì cái món quà mà con viết thư này đây, nếu anh chị em có hỏi tới con có lẽ con đã bàn thấm thía hơn!
Vì có lòng hiếu thảo con cháu hùn nhau mua sợi dây chuyền tặng cho cha má đeo. Nhìn bằng con mắt thế tục thì hay lắm, con cháu thật sự có tình nghĩa. Nhưng xét cho cùng tới chỗ lý đạo thì coi chừng bị sơ hở! Vì sao vậy? Thưa cha má, như trên con đã nhắc qua, muốn vãng sanh thì phải biết buông-xả, đừng dính mắc vào bất cứ chuyện gì thì mới có hy vọng thoát thân được. Buông-xả thứ gì đây? Gần gũi nhất là "Ngũ-dục, Lục-trần". Ngũ-dục là "Tài, Sắc, Danh, Thực, Thùy", lục trần là "Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp" ("Xúc" là tiếp xúc, "Pháp" là những phương pháp, triết lý, cách sống, suy nghĩ, TiVi, kịch ảnh, cải lương... của thế gian).
Trong ngũ-dục, thì tiền tài là món ảnh hưởng rất lớn. Một người trước phút lâm chung chỉ cần khởi một niệm tham luyến ngũ dục thì tức khắc bị đọa lại trong tam đồ liền. Sợi dây chuyền, đôi bông tai, tiền bạc... tiêu biểu cho "Tài", dễ gây xáo động tâm ý người ra đi. Trong một thời điểm tối quan trọng, tối khó khăn, một khi vừa lóe lên một ý niệm, tâm bị dao động thì có thể thay đổi hẳn cục diện. Nghĩa là thay vì vãng sanh thì lại trở thành đọa lạc. Ngũ-dục, lục-trần là những cái còng lôi mình lại trong luân hồi đọa lạc. Những người tới chùa mà đeo nữ trang đầy mình, xiêm y lòe loẹt thì dù bề ngoài họ có tu hành, nhưng cũng khó mà đắc được gì! Đó không phải là nhìn bề ngoài mà đoán bên trong, nhưng chính cái tham luyến bên trong của họ đã thô thiển lộ ra bên ngoài vậy!
Cho nên, nếu thật sự muốn cầu vãng sanh Tây-phương Cực-lạc trong một báo thân này để trở về cái chân tánh Phật tâm của mình thì phải cẩn thận chú tâm quán xét cho kỹ. Pháp niệm Phật là "Vạn nhân tu vạn nhân đắc", chỉ cần làm đúng là đi được. Thế nhưng tâm không thanh tịnh, không chịu làm đúng, thường để ngũ dục, lục trần cám dỗ đánh lạc hướng, nhất là giờ phút lâm chung thì cũng đành chịu thua. Bây giờ cụ thể con nêu vài ý kiến cha má nghĩ thử. Con nghĩ tuổi già cả không nên đeo đồ nữ trang trong người làm chi.
Một là, dễ tạo nên tà ý cho những kẻ bất thiện. Những chuyện cướp giựt, giết người đã xảy ra khắp nơi chỉ vì một vài ngàn bạc nhỏ nhoi đã từng xảy ra thì mình cũng cần chú ý. Tuổi trẻ họ đua đòi thì đành như vậy đi, còn cha má đã quá già rồi đeo thứ đó làm chi. Lão- Tử dạy, "Bất kiến sở dục, sử nhân tâm bất loạn". (Nghĩa là, đừng khơi cái lòng tham thì con người không khởi loạn). Cái sợi dây chuyền dù nhỏ nhoi tới đâu, nhưng đeo trên thân thể một ông cụ ốm yếu lụm cụm là món mồi quá ngon cho lòng tham nổi loạn. Đừng để phải ân hận thì mình cũng đã thiệt thòi rồi, đúng không thưa cha má?
  Cho nên, đừng thèm đeo, không thèm cất giữ, đó mới là tự tại. Nếu gia đình có những đứa con bất hiếu ngỗ nghịch, sợ ngày già không ai nuôi, sợ chết không ai chôn, thì cũng ráng cất kỹ để chết có tiền chôn!?... Cha má đâu có những đứa con đó đâu mà lo trước?
Con xin kể ra đây một câu chuyện có thực xảy ra ngay trong làng mình mà con trực nhớ ra, chuyện xảy ra từ ngày con còn nhỏ, có lẽ cha má còn nhớ. Một bà cụ ở với người dâu và đứa cháu nội khờ. Người dâu lại chết trước, bà nội lụm cụm nuôi đứa cháu dại khờ rất tội nghiệp. Bà sống khá thọ trong cảnh côi cút đó. Khi bà chết âm thầm trong nhà, người hàng xóm có liên quan bà con gì đó thường lui tới "giúp đỡ", thấy vậy, cái hành động giúp đỡ đầu tiên là giựt cái nắm tiền trong tay đã cứng đơ của bà cụ, cái giúp thứ hai là giựt đôi bông tai bằng vàng còn dính trên tai người chết. Đang làm chuyện này thì có một người hàng xóm khác vừa tới, phát hiện ra... Người chết thì đã chết rồi, người giựt thì nay cũng đã nằm trong nấm mồ xanh cỏ. Thật là chua xót! Chuyện là như vậy...
Đời thật quả vô-thường! Nếu bà cụ đó có tu hành, biết đời là mộng huyễn thì giữ chi đôi bông tai? Biết đời là bọt bóng, là ảo ảnh thì nắm làm chi cái gói tiền trong khi chết? Còn người kia nếu có tu hành thì chắc cũng hiểu kiếp sống ngắn ngủi như giọt sương, có đó mà tan biến nhanh như điện chớp, thì giành giựt làm chi những thứ giả tạm cho mang nghiệp vào thân? Rõ ràng những thứ này, sinh không mang tới chết không đem theo, mà tham luyến làm chi vậy?!
Cho nên, đeo mấy thứ vàng bạc để làm chi? Tuổi già chờ từng ngày một để ra đi thì mấy thứ này nên cởi xuống giao lại cho con cái nó giữ, muốn bán, muốn cất tùy ý, cứ miễn sao mình có cơm ăn qua ngày là được. Mua thứ mắc tiền tặng cha má sao bằng tới chùa thỉnh xâu chuỗi về đeo, nó vừa hay vừa rẻ hơn nhiều. Thứ này gặp người xấu, năn nỉ họ lấy cũng không thèm lấy. Nhưng xâu chuỗi để giúp niệm Phật, một hột một câu, hằng ngày niệm liên tục thì một hột chuỗi tàng chứa hàng ngàn, hàng vạn câu Phật hiệu. Đeo câu Phật hiệu lên người để nó nhắc mình niệm Phật, để được giải thoát, nó phải hay hơn những thứ tài vật ngàn vạn lần chứ cha má!
Hai là, nếu cha má đã hiểu được đạo, đã thấy vãng sanh về Tây-phương là điều tối quan trọng, vô cùng quý báu, một cái đại phúc báu trên đời, thì cha má hãy dồn hết nỗ lực vào con đường đó. Con đã gởi về cho An một nửa bộ giảng ký Kinh Vô-Lượng-Thọ của Ngài Tịnh-Không giảng, đây là kinh đức Phật Thích-ca nói về cảnh giới Tây-phương Cực-lạc, cha má cố gắng ngày đêm, đêm ngày bám sát bộ giảng ký này mà nghe, nghe đi nghe lại hàng trăm lần thì tự nhiên thấy hết tất cả. Cha sẽ thấy cái tối thắng không thể nào nghĩ bàn của thế giới đó, đang mở cửa đón mời những người niệm Phật vãng sanh.
Còn một hơi thở còn niệm câu Phật hiệu, còn một cảm giác còn nghĩ tưởng đến Phật A-di-đà. Tất cả đều hướng thẳng về mục đích tối hậu ấy thì mới mong khỏi lạc đường. Suốt cuộc đời mình đã sơ ý để tâm mình chạy đi khắp nơi, quyến luyến toàn là ngũ-dục lục-trần, quên bẵng câu Phật hiệu suốt bảy tám chục năm rồi. Giờ đây đã đến tuổi xế chiều, gần ngày ra đi mà không chú tâm giải thoát, vẫn còn lưu luyến mấy thứ đó nữa thì làm sao có thể cởi thoát mấy cái sợi dây thòng lọng đó được? Chẳng lẽ đã thấy rõ đường đi rồi mà vẫn cam tâm đọa lạc nữa sao, thưa cha má?
Chắc cha má và anh chị em đã coi xong cuộn "Hoa Khai Kiến Phật" rồi chứ gì? Bà cụ Triệu-Vinh-Phương, chín mươi tuổi mới có cơ may niệm Phật, bà quyết lòng tin tưởng đi thẳng một mạch, chín mươi bốn tuổi vãng sanh vào năm 1999. Khi thiêu xác, bà còn biểu diễn một pha ngoạn mục, là chiếc xương biến thành tượng Phật để tặng lại cho những người hộ niệm cho bà. Chuyện này chẳng lẽ chưa tin sao? Trong cuộc đời của Cụ có một sợi dây chuyền vàng rất quý giống như gia bảo vậy, có hột kim cương hình Phật, đế Phật ngồi được làm bằng thứ cát lấy ở sông Hằng-Hà bên Ấn-Độ là nơi tiền thời đức Phật có ngự tới. Sợi dây chuyền quý giá được bà trân quý, là vật bất ly thân trong suốt cuộc đời. Thế nhưng khi đã hiểu đạo, bà gỡ liệng ra và dặn con cháu không được để bà thấy lại lần nữa.
Đó là một quyết định rất là sáng suốt, rất trí dũng. Bà biết tâm tham luyến của bà chưa rửa sạch, suốt chín mươi năm trường chạy theo dục lạc, tiền tài thế gian thì nay vừa mới hiểu đạo, nhưng chưa có công phu làm sao dám khinh thường những sự cám dỗ của vật chất. Cho nên nếu cha má thật sự quan tâm đến huệ-mạng của mình thì phải dứt khoát đoạn tất cả những nguồn tham luyến này, tất cả những thứ gì gây ảnh tượng đam mê phải tìm cách bỏ, bỏ một lần không được thì phải tập bỏ dần hằng ngày, hằng giờ, hằng phút. Nếu lơ là thì dù có thương cha má tới đâu, dù có chuẩn bị cho cha má tới đâu, dù có viết hàng trăm lá thư nữa cũng trở thành vô ích, con cũng chỉ đành rơi nước mắt mà nhìn cha má trôi lăn theo dòng nghiệp báo đọa lạc mà thôi!
Nếu hỏi rằng, thích đeo một sợi dây chuyền, một chiếc nhẫn, một cái lắc vàng có tội lỗi gì đâu? Con xin thưa, đúng đó, không phải là lỗi gì cả nhưng chính nó sẽ là cái bẫy cám dỗ cái tâm mình. Cha má nên nhớ một điều là tất cả mọi cảnh giới ở tương lai đều hình thành ngay trong tâm tưởng của mình trong hiện tại này đây và nhất là tại ngay thời điểm lâm chung. Tưởng nhớ Phật về tới cảnh Phật. Đang niệm Phật, sợi dây chuyền cạ ngưa ngứa tại cổ là đủ cho mình nghĩ tưởng tới nó rồi, tức là tâm bị lạc liền. Niệm Phật, Phật quang bắt đầu hiện ra tiếp dẫn, chỉ cần một tiếng kêu khóc của con cháu thì Phật quang biến mất, cảnh giới xoay hướng, thần-thức bị lôi vào khoảng cách ấm mê mờ để tiếp tục trôi theo dòng nghiệp báo luân hồi. Định lực không mạnh, đang niệm Phật bỗng chợt thấy mẹ mình vẫy tay mình tưởng thiệt, vừa bước theo là xong ngay, nó chộp liền, vì đó chính là Ma-quái đã gạt mình, v.v...
Cho nên con thường nhắc đi nhắc lại rất nhiều thư, và dặn anh chị em hãy thay phiên nhau đọc thư để cha má hiểu và con cũng muốn mọi người trong nhà cùng hiểu để cùng hỗ trợ, hộ-niệm cho nhau. Nhưng đáng tiếc là ai cũng chỉ coi lướt qua, coi lấy lệ rồi mỉm cười!... Trong cuộc đời này chưa chắc có nhiều người hiểu được cái đạo lý giải thoát này đâu. Tìm mờ mắt chưa chắc đã có người chỉ rõ được đường đi nước bước rõ ràng như con  đâu cha má ạ. Thư con viết khá dài là để nói rõ, bất cứ ai cũng có thể coi được, hiểu được. Thư khuyên tu hành có gì đâu mà phải ngại riêng tư.
Hỏi rằng tại sao Phật quang lại dễ tan biến vậy? Sao mà yếu vậy? Không phải vậy đâu. Ánh sáng của Phật, như trong kinh nói, "Phật hằng phóng quang minh chiếu nhất thiết..." nghĩa là Phật quang luôn luôn phổ chiếu khắp mười phương thế giới, tất cả mọi nơi (chứ không phải chỉ riêng quả địa cầu này) để tiếp dẫn chúng sanh, không có giây phút nào ngưng hết. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhớ là ánh sáng của Ma-Vương cũng thường chiếu để tranh nhau tiếp dẫn. Chỉ có khác là ánh sáng của ma thì làm cho tâm mình nóng-nảy, đố-kỵ, giận-dữ, tật-đố, ganh-ghét, tham-lam... dẫn tới sự đọa lạc. Dễ nhận hơn là làm cho ta chói mắt. Còn quang minh của Phật thì làm cho dịu mắt, tâm hồn an-ổn, thanh-tịnh, từ-bi... để giải thoát. Quang minh của Phật tiếp dẫn bình đẳng và tùy duyên, ai tiếp nhận thì được hưởng, ai từ chối thì quang minh biến mất.
Cái tâm của mình thật sự có hai mặt vừa là tấm chắn vừa là hấp thụ. Tưởng tượng như ta đang đứng giữa hai luồng ánh sáng chiếu tới, hễ ta ngăn ánh sáng này thì ánh sáng kia tràn ngập, ta chận ánh sáng kia thì ánh sáng này tràn ngập. Khi tâm ta quyết theo Phật, chỉ Nghĩ – Tưởng – Niệm – Nhớ tới Phật thì tự nhiên tấm chắn sẽ ngăn ánh sáng ma lại và Phật quang tự do chiếu xúc tiếp dẫn ta vãng sanh. Ngược lại, thì tự ta làm ta bị đọa lạc. Đây là ví dụ.
Lời tán thán Phật A-di-đà có câu, "Quang Trung hóa Phật vô số ức, hóa Bồ-tát chúng diệc vô biên", nghĩa là Phật tiếp dẫn chúng sanh bằng cách phóng ánh sáng đi khắp nơi, trong ánh sáng hóa ra Phật, Phật lại phóng quang, quang minh lại hóa ra Phật... trùng trùng điệp điệp để cứu độ tất cả chúng sanh. Trong quang minh của Phật còn hóa ra Bồ-tát để bảo vệ, hộ pháp, thuyết pháp cho người niệm Phật. Cho nên, niệm Phật nhứt tâm thì tự nhiên được quý Bồ-tát bảo vệ, không nhứt tâm thì quang minh biến mất, Bồ-tát cũng bỏ đi luôn, ma quái tự do hốt gọn thần-thức đi về chỗ đọa lạc .
Trở lại chuyện đeo vàng bạc trên người, thật là điều không tốt! Cất giữ vàng bạc cũng không hay ho gì đâu cha má ạ! Cha má nghĩ thử, pháp môn niệm Phật là pháp tối thắng mà Phật A-di-đà cúng dường cho tất cả chúng sanh, không phân biệt có lỗi hay không, có tội hay không đều được bình đẳng vãng sanh về Tây-phương để thành Phật trong một đời này. Chỉ cần là người đó phải biết thành tâm ăn năn, chí thành sám-hối, một lòng tin tưởng Phật, nhứt tâm nguyện sanh về đó, nhứt hướng chuyên niệm A-di-đà Phật thì được Phật tiếp dẫn. Rất nhiều người đã vãng sanh rồi, nhiều lắm chứ không phải là không có.
Cho nên niệm Phật vi diệu lắm, không thể tưởng tượng được đâu, nhưng nó đòi hỏi phải nhứt tâm niệm Phật, nhứt tâm tưởng Phật, nhứt tâm hướng về Tây-phương thì tự nhiên thành. Còn như lơ đễnh, còn xao lãng, còn mơ chuyện này, chuyện nọ thì đành mất phần vãng sanh. Lúc đó niệm Phật sẽ trở thành thứ phước báu bình thường để đời sau hưởng
phước. Cái nguy hiểm là càng nhiều phước thì càng gây nhiều họa, để cuối cùng vẫn phải chịu đọa lạc và bị nặng hơn.
Cho nên chuyện cất giữ tiền tài, nhìn qua thì không dính dấp gì đến chuyện niệm Phật, nhưng xét cho kỹ thì coi chừng nó là cái còng giữ mình lại đó. Cha má nghĩ thử, người thực sự muốn vãng sanh thì tâm tâm phải niệm Phật. Đàng này đi đâu cũng nghĩ tới tiền, ra ngoài mà tâm cứ bồn chồn lo lắng liệu có ai vào nhà ăn trộm không? Mình để chỗ đó có an toàn không? v.v... Thưa cha má, liệu mình còn an tâm niệm Phật nữa không? Đây chỉ là ví dụ, chứ còn biết bao nhiêu thứ khác chi phối tâm trí, nào là ai cho heo ăn? Ai tưới rau? Ai giữ cháu? Ai đi chợ bán giùm cho con?... Khi cái tâm đã trói quyện vào những thứ đó rồi làm sao niệm Phật cho trôi đây?
Xin cha má nhớ cho, niệm Phật chính là TÂM NIỆM CHỨ KHÔNG PHẢI MIỆNG NIỆM. Niệm Phật là trong tâm lúc nào cũng tưởng-nghĩ-nhớ tới Phật, tất cả đều nhứt tâm hướng về Phật mới gọi là niệm Phật. Còn miệng là dùng để nói, kêu, gọi... Phật, chuyên môn hơn một chút gọi là miệng XƯNG PHẬT. Cho nên mới có danh từ là Xưng Niệm. Xưng thuộc về miệng, niệm thuộc về tâm, lâu ngày mình cứ gọi chung là niệm Phật cho đơn giản, chứ thực ra miệng xưng là để nhắc cho cái tâm niệm Phật. Vì cái tâm cứ chạy rông cho nên cái miệng phải xưng A-di-đà Phật cho lớn để kéo cái tâm về, để chuyển hóa hoàn cảnh, chuyển phiền não thành ra A-di-đà Phật để đưa về tâm. Hễ cái tâm càng xao lãng thì niệm càng lớn để đánh thức, đó là cái phương tiện để đánh thức cái tâm. Khi đã thức tỉnh rồi thì tất cả những thứ gì làm tâm mình bị chi phối phải liệng đi, quên đi, bỏ đi để cho tâm mình thanh tịnh niệm Phật. Chứ còn bây giờ đi đâu cũng lo với lắng, giờ giờ phút phút đều nghĩ tới hết chuyện này đến chuyện khác, thì dù cho miệng có kêu "A-di-đà Phật" đến khan cổ bể hầu cũng chỉ là vô ích mà thôi!
Cho nên, tốt nhứt là không giữ thứ gì cả thì an nhiên tự tại. Tiền bạc đừng nên giữ làm gì, có được đồng nào có thể giao hết cho chị Ba, em Thứ hoặc vợ chồng Mười Phương giữ đi. Hãy để tự các con giải quyết sao cũng được, miễn sao cha má có hai bữa cơm hàng ngày là được rồi, mấy người con thay phiên nhau nấu cơm, mình ăn xong niệm Phật, không thấy thoải mái hơn sao?
Ráng lên cha má, chỉ quyết tâm niệm Phật một thời gian trong cuối đời ngắn ngủi này thôi, mà cha má vãng sanh được là vượt hơn người ta tu vạn kiếp chứ không phải nhỏ đâu. Anh chị em, con cháu trong nhà nên thương cha má, hãy cố gắng phụng dưỡng ông bà. Chúng ta cùng nhau cố gắng lo tròn chữ hiếu, đừng vô tình cứ tỉnh bơ mà tội nghiệp cho người sanh thành và cho chính mình nữa vậy.
Nam-mô A-di-đà Phật. Con kính thư.
(Viết xong, Brisbane ngày 19/5/2002).

Khuyên người niệm phật (Tập 1) - Diệu ÂmNơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ