Nguyên do hay lý do?

40 2 0
                                    

Date: 23/2/2022

cre: Tâm Lý Học Hành Vi

__________________________________________

Tiến sĩ Jonathan Pincus, trưởng khoa thần kinh tại bệnh viện Đặc trách Cựu chiến binh ở Washington, DC, nghiên cứu điều gì khiến con người bạo lực, và ông đưa ra ba biến thể: tổn thương não, bạo hành, và bệnh tâm thần - đáng chú ý là suy nghĩ hoang tưởng. Trong cuốn Base Instincts (Bản năng nền móng), ông nói, "Tổ hợp yếu tố ấy cũng là nền tảng của hành vi giết người." Phân tích qua hơn 150 vụ án giết người từ Ted Bunny đến sát nhân gái mại dâm Joel Rifkin, Pincus tin rằng những yếu tố này có liên quan đến hầu hết hành vi bạo lực chí mạng.


Phiên tòa của "sát nhân pizza" Thomas Koskovich tán đồng với ít nhất hai phần trong công thức này. Một nhân viên xã hội cho lời khai rằng nhà Koskovich xảy ra bạo lực gia đình, bạo hành thể chất, và hành vi tự tử. Cô đưa ra ý kiến rằng Koskovich được nuôi dạy trong một gia đình không có kết cấu, phải chịu đựng sự thờ ơ về mặt cảm xúc khi bố mẹ bỏ hắn cho ông bà nuôi. Một chuyên gia khác làm chứng Koskovich bị bệnh tâm thần, có nhận thức mờ nhạt về thực tế, và đang ủ bệnh tâm thần phân liệt thể hoang tưởng. Không ai nhắc đến việc hắn có bị tổn thương não hay không.

Pincus đồng tình với Dorothy Otnow Lewis, tác giả cuốn Guilty by Reason of Insanity (Có tội vì lý do tâm thần): cả hai đều tin rằng vai trò của tổn thương não và bạo hành đều là những yếu tố chủ chốt. Tuy nhiên, Pincus cho rằng hướng tiếp cần thì có đôi chút vấn đề. Ông bàn về vụ án của Louis Culpepper, ngồi tù vì tội lạm dụng tình dục một bé gái 6 tuổi. Khi Pincus tìm ra bằng chứng hắn bị tổn thương não từ một vụ tai nạn và trong quá khứ từng bị người thân họ hàng bạo hành tình dục đã sinh ra những ảo tưởng tình dục với trẻ em, ông đặt giả thiết rằng tổn thương não đã loại bỏ những rào cản của Culpepper và cho phép hắn làm những điều mà bình thường hắn sẽ không làm.

Pincus sau đó suy nghĩ lại những vụ án khác và dùng ý kiến của mình để đánh giá những vụ án tiếp theo mà ông được cho gọi. Nhưng vấn đề với hướng tiếp cận này là nó dựa trên lối ngụy biện logic gọi là "begging the question" (né tránh câu hỏi - có thể hiểu là nhận định một sự việc là đúng bởi vì nó đúng, nhưng không thể đưa ra lý giải vì sao nó đúng). Từ một mẫu nhỏ (một), ông xây dựng những giả thiết hình thành một hướng tiếp cận khiến ông chỉ nhìn thấy những bằng chứng mà mình muốn nhìn thấy. Nói cách khác, ông đặt ra một lý thuyết và tìm kiếm bằng chứng ủng hộ lý thuyết ấy. Điều có thể xảy ra là ông sẽ bỏ sót những yếu tố quan trọng cũng như nhấn mạnh thái quá lên những yếu tố thực chất lại rất nhỏ nhặt. Trên thực tế, lý giải của ông đúng với những bị cáo gây án nhất thời nhưng không đúng với loại người máu lạnh lên kế hoạch và thực hiện một vụ giết người hoặc loại hình tàn ác nào khác.

Để nhìn nhận những vấn đề này hợp bối cảnh, ta hãy xem qua vụ án mà Dorothy Lewis phân tích. Bà là nhân chứng chuyên gia bào chữa trong vụ án kẻ giết người liên hoàn Arthur Shawcross đến từ Rochester, New York. Cuối những năm 1980, hắn giết ít nhất 11 phụ nữ, đa số là gái mại dâm, và tìm lại thi thể để phanh thây. Một người hắn mổ xẻ từ trên xuống dưới, người khác hắn cắt bỏ bộ phận sinh dục.

Lewis giám định hắn và đưa ra kết luận sau buổi thôi miên cùng quá khứ thời thơ ấu chấn thương tâm lý nặng nề và mắc chứng động kinh thùy thái dương chặn mất ký ức. (Chị gái của hắn phủ nhận rất nhiều điều hắn cho là sự thật.) Lewis cho rằng những cơn động kinh chỉ xảy ra khi hắn ở một mình với gái mại dâm vào ban đêm (mặc dù sau đó bà đã thay đổi giả thiết và cho rằng ý kiến này khá mâu thuẫn). Dù tên sát nhân đã hoàn toàn thừa nhận giết người và đưa ra những chi tiết chỉ có kẻ giết người mới biết, bao gồm việc chỉ điểm vị trí hai thi thể nạn nhân cho điều tra viên, Tiến sĩ Lewis nói rằng ký ức của hắn bị tổn thương vào thời điểm gây án và hắn không thể biết được mình đang làm gì. Bà cũng nói rằng việc hắn cắt bỏ bộ phận sinh dục của một nạn nhân và ăn nó đã chứng minh hắn mắc chứng rối loạn - phần lớn giả thiết đều dựa trên những gì Shawcross nói với bà chứ không phải dựa trên chứng cứ pháp lý và tư liệu xác thực. (Và cần nhớ rằng Shawcross mong mình sẽ có được lời bào chữa bệnh tâm thần.)

Tuy nhiên, Lewis không hề nhận ra khả năng kẻ giết người đang diễn kịch để lợi dụng bà. Đa số nhà tâm lý học pháp chứng biết những kẻ cuồng loạn hay lừa lọc và chơi khổ nhục kế. Dù Lewis khăng khăng ảnh chụp cộng hưởng từ cho thấy có một túi nang nhỏ đầy chất dịch ở thùy thái dương bên phải của hắn, nhưng bà không thể chứng minh điều này có ảnh hưởng gì đến hành vi giết người. Sau 15 năm tù hắn được trả tự do vì trong suốt thời gian bị giam hắn hoàn toàn không hề có hành vi bạo lực. Nhưng hắn lại giết và phanh thây hai đứa trẻ. Làm sao mà tổn thương não và rối loạn tâm lý có thể khiến hắn giết người trong một trạng thái tách biệt chỉ khi hắn ở cùng với trẻ em hoặc gái mại dâm?

Một vấn đề khác với hướng tiếp cận của Pincus và Lewis là họ chỉ nghiên cứu những cá thể ngồi tù. Ví dụ, cả hai đều viết về một nghiên cứu trên 14 tù nhân tử hình thực hiện hành vi giết người trước tuổi 18. Họ tìm thấy tổ hợp ba yếu tố trên tất cả trường hợp. Nhưng có thể đó là do những người sở hữu tổ hợp ba yếu tố này thường bốc đồng hơn và vì thế dễ bị bắt hơn. Vì hai nhà tâm lý học này chưa hề nghiên cứu những kẻ giết người không bị bắt hay những người như Leopold và Loeb (không bị bạo hành, tổn thương não hoặc bệnh tâm thần), nhiều khả năng có những yếu tố khác góp phần vào bạo lực, và cũng nhiều khả năng là những yếu tố họ đưa ra không phải lúc nào cũng hiện diện.

Họ cũng bỏ qua ảnh hưởng của những yếu tố xã hội. Ví dụ, hãy nhớ rằng không phải tất cả hành vi bạo lực đều được xem là độc ác, ta hãy xem qua những giả thiết về nguyên do của bạo lực.

TÂM LÝ HỌC - PHÁP Y - SUY LUẬNNơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ