ĐẦU TƯ HAY ĐẦU CƠ!
Điều chúng ta muốn nói lên bằng thuật ngữ "nhà đầu tư" (investor) là gì? Trong suốt cuốn
sách, thuật ngữ này sẽ được sử dụng theo nghĩa tương phản với "nhà đầu cơ" (speculator). Ngay từ
năm 1934, trong giáo trình Security Analysis (Phân tích chứng khoán) của mình, chúng tôi đã
thử tìm cách trình bày một cách chính xác sự khác nhau giữa hai thuật ngữ đó như sau: "Hoạt động
đầu tư là hoạt động dựa trên sự phân tích kỹ lưỡng, hứa hẹn sự an toàn của vốn và mang lại một
phần lời lãi thỏa đáng. Các hoạt động không đáp ứng được các yêu cầu đó là hoạt động đầu cơ.
Trong khi chúng tôi luôn bám sát định nghĩa này trong suốt 38 năm qua, một điều cũng cần lưu
ý là đã có những thay đổi lớn lao xảy ra đối với việc sử dụng thuật ngữ "nhà đầu tư" trong giai đoạn
đó. Sau cuộc đại suy thoái thị trường những năm 1929-1932, tất cả các cổ phiếu thường đều bị coi
là có tính đầu cơ về bản chất. (Một chuyên gia hàng đầu đã tuyên bố thẳng thừng rằng chỉ có trái
phiếu mới có thể đuợc mua để đầu tư). Do vậy, khi đó chúng tôi đã phải bảo vệ định nghĩa của
mình khỏi lời buộc tội là nó nêu ra một phạm vi quá rộng đối với khái niệm đầu tư.
Song hiện nay mối quan ngại của chúng tôi lại theo chiều ngược lại. Chúng tôi phải ngán không
để bạn đọc sử dụng một biệt ngữ thông dụng nhằm áp dụng thuật ngữ "nhà đầu tư" đối với bất cứ ai
và tất cả mọi người trên thị trường chứng khoán. Trong lần xuất bản gần đây nhất, chúng tôi đã trích
dẫn dòng tít lớn sau đây của một bài báo trên trang nhất trong tạp chí tài chính hàng đầu của mình
vào tháng 6 năm 1962:
CÁC NHÀ ĐẦU TƯ NHỎ LÀ NHỮNG NGƯỜI BÁN LÚC GIÁ XUỐNG, HỌ BÁN KHỐNG CÁC LỐ LẺ
Tháng 10 năm 1970, cũng tạp chí này có bài xã luận phê phán cái mà tạp chí đó gọi là "các nhà
đầu tư liều lĩnh", những người đã vội vã gia nhập bên mua.
Các trích dẫn này minh họa khá rõ sự lẫn lộn thống trị nhiều năm trong việc sử dụng các từ đầu
tư và đầu cơ. Hãy xem định nghĩa về đầu tư mà chúng tôi đề xuất ở trên và so sánh nó với việc bán
một số cổ phiếu bởi một người ít kinh nghiệm trong công chúng, một người thậm chí không sở hữu
cái mà anh ta bán ra, và có một niềm tin mang nặng cảm tính là anh ta sẽ có khả năng mua lại các
cổ phiếu đó với giá thấp hơn nhiều. (Điều không phải không thích hợp là chỉ ra rằng khi bài báo
năm 1962 xuất hiện thì thị trường đã chịu một đợt sụt giảm lớn, và sau đó đã sẵn sàng cho một đợt