TRIỂN VỌNG CỦA CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Tạp chí Điện tử của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
Triển vọng Kinh tế, tháng 10/2005
CÔNG NGHỆ SINH HỌC VÀ NHỮNG THÁCH THỨC TOÀN CẦU
Jennifer Kuzma
Công nghệ sinh học nếu được sử dụng hợp lý sẽ cho chúng ta những khả năng tiềm tàng và những thực phẩm tốt hơn cho sức khỏe, giảm bớt sự phụ thuộc vào các loại nhiên liệu, mở ra những khả năng chữa trị các dịch bệnh hiệu quả hơn. Enzymes, thứ có thể biến các nguyên liệu thực vật thành những loại nhiên liệu sinh học như ethanon, kết cục đã giúp cho việc sản xuất các sản phẩm năng lượng sinh học bền vững với chi phí hiệu quả hơn. Công nghệ sinh học mới đã tạo giống lúa giàu vitamin A có thể giúp giảm bớt chứng mù lòa do thiếu hụt vitamin ở các nước đang phát triển.
Nhưng việc áp dụng những biện pháp này cũng mang lại những rủi ro đòi hỏi cần được khắc phục bằng các thể chế an toàn và chuẩn mực. Các chính phủ và các tổ chức khác cũng cần có bước tiến trong đầu tư cho nghiên cứu công nghệ sinh học và phát triển sản phẩm nhằm giúp các nước đang phát triển và hỗ trợ những quốc gia này khả năng đạt được lợi ích từ sự đổi mới về sinh học.
Jennifer Kuzma là Phó Giám đốc Trung tâm Khoa học Công nghệ và chính sách công của trường Đại học Minnesota.
Khoa học chỉ có thể xác minh đó là cái gì chứ không phải nó nên là cái gì, ngoài nhiệm vụ ấy, nó đưa ra những nhận xét có giá trị cho tất cả những gì cần thiết tồn tại.
-Albert Einstein
Trong nhiều thế kỷ, con người đã sử dụng sức mạnh của các hệ thống sinh học để nâng cao cuộc sống của họ và thế giới. Nhiều người tranh luận rằng công nghệ sinh học bắt đầu từ hàng nghìn năm trước, khi cây trồng là các giống loài đầu tiên có đặc điểm riêng và vi sinh vật được dùng để nấu bia. Những người khác lại cho rằng sử khởi đầu của công nghệ sinh học là khi xuất hiện khả năng kỹ thuật cho phép các nhà nghiên cứu có thể điều khiển và chuyển đổi gen từ một cơ thể này sang cơ thể khác. Việc tìm ra cấu trúc DNA vào những năm 1950 đánh dấu bước khởi đầu kỷ nguyên mới. Gen được cải tiến từ DNA và được biểu hiện dưới dạng protein. Chúng tạo nên những cấu trúc làm cho chúng ta có những đặc điểm riêng. Vào những năm 1970, các nhà khoa học đã khám phá ra và sử dụng sức mạnh của "cái kéo" tự nhiên - protein được coi là enzymes hạn chế - để cắt riêng một gen từ một loại sinh vật này sang những sinh vật có liên quan hay không liên quan. Như vậy, công nghệ DNA tái kết hợp, hay như hầu hết các chuyên gia ngày nay cho đó là công nghệ sinh học hiện đại, đã ra đời.
Những người khai phá ra công nghệ sinh học không thể hình dung ra khả năng hiện nay của chúng ta trong việc tạo ra những giống cây chống lại được bệnh dịch, những vật nuôi sản sinh ra thuốc trong sữa của chúng và những hạt nhỏ để bắn vào hay phá hủy các tế bào ung thư. Hơn nữa, công nghệ sinh học cũng có thể là một bộ công cụ giúp hiểu biết thêm về các hệ thống sinh học. Genomis được dựa trên những công cụ này và là sự nghiên cứu về gen cũng như các chức năng của chúng. Chúng ta đã xác định được thành phần, hoặc "đã được xâu chuỗi", của toàn bộ gen con người và nhiều cơ thể khác nhờ có công nghệ sinh học. Thông tin Genomic đang giúp chúng ta nhiều hơn trong đánh giá những đặc tính chung và đa dạng giữa các sinh vật và con người đang tìm cách để hiểu và chữa trị bệnh dịch, thậm chí tổ chức chăm sóc cho từng cá thể.