Tôi rất thích ăn xôi buổi sáng.Ngày xưa chưa thịnh hành xôi mặn với nào thịt nào chả đựng trong hộp xốp bán giá hai mươi, ba mươi nghìn như bây giờ, xôi là món ăn sáng chắc bụng đầy đặn mà rẻ rang cho tụi trẻ con háu đói. Gói xôi năm nghìn ú ụ chỉ toàn xôi, dặm thêm tí ruốc hay muối vừng, thế là có thể tạm 'sống sót' tới giờ ăn trưa.
Tôi thường mua xôi của cô bán xôi đầu ngõ. Chẳng biết cô thức dậy mỗi ngày từ mấy giờ. Chỉ biết sáng nào đi học ngang qua, tôi cũng đã thấy cô ngồi ở đó, bên thúng xôi ủ kĩ, đon đả mời chào người qua đường. Trông cô cũng chừng ba mươi tuổi. Có lẽ ngày trẻ cô phải rất đẹp, có thể thấy qua cái mũi dọc dừa, đôi mắt đen lúng liếng và cái miệng lúc nào cũng cười rất tươi. Nghe đâu mấy ông thợ xây gần đó ngày nào cũng qua chỗ cô ăn sáng là vì thế.
Xôi của cô thường có vài ba vị khác nhau. Xôi lạc, xôi xéo, xôi ngô. Thỉnh thoảng có cả xôi dừa, xôi gấc theo mùa.
Tôi thích ăn xôi lạc nhất. Có lẽ bởi vì cái vị xôi trắng tinh tươm không lẫn thêm hương vị nào. Có thể ngồi mà nhặt từng hạt xôi căng mẩy, trong ngần như hạt ngọc gói trong chiếc lá sen tươi vẫn còn xanh ngát. Có thể nhâm nhi cái dẻo thơm của mùi lúa, thoang thoảng hương lạc. Trẻ con vốn có rất nhiều trò với đồ ăn, tôi còn hay ngồi tỉ mẩn bốc từng nhúm xôi nho nhỏ, gói lấy một xíu muối vừng, nắm lại thành từng nắm tròn xoe cỡ quá trứng chim cút. Rồi mới cẩn thận nhặt từng viên lên ăn. Vị xôi còn ấm, dẻo dai quyện với vị mặn bùi của vừng lạc rang muối, đủ để cái dạ dày háu ăn của tôi nuốt trọn cả gói xôi to tướng trong chớp mắt mà chẳng cần thêm thứ gì ăn kèm.
Lại nhớ ngày còn nhỏ, hè về quê với ông bà, vẫn hay được ăn xôi đỗ đen. Chiều hè hiu hiu, nằm trên võng lót chiếu trước hiên nhà. Nắng chiều lọt qua mành trúc treo cao, đu đưa trên mặt, trên cổ, thiu thiu ngủ cho tới khi bị ông gọi dậy, gí cho nắm xôi đỗ đen với tí ruốc mặn. Chả hiểu là thứ nếp quê thơm dẻo, là đậu quê bở bùi nhẳn cát. Là thứ ruốc lợn để lâu ngày khô quắt mặn mòi, là nồi gang đen kín muội than trên bếp củi thô sơ. Hay là nụ cười móm mém trên gương mặt hằn sâu vết dấu thời gian của ông tôi, long lanh trong nắng muộn xiên khoai bên hiên nhà, khiến tôi chẳng thế quên nổi cái mùi hương nếp đậu đậm chất thôn quê của những ngày xa xưa đó. Sau này có dịp ăn lại xôi đậu đen ở Hà Nội, tôi vẫn chẳng thể tìm được hương vị nào giống như thế.
Ông mất rồi, hương vị đó chỉ còn nằm lại trong ký ức.
Đến cả cái thứ tôi vẫn nghĩ sẽ luôn ở đó, như gánh xôi đầu ngõ nhà tôi, cũng đã bị cuốn trôi đi trong nhịp sống hối hả của thành phố. Thời buổi giờ, xôi chẳng còn là món ăn rẻ tiền chắc bụng hàng sáng. Người ta đua nhau ăn ngon mặc đẹp, chứ chẳng còn tìm cách ăn no mặc ấm. Và thế là cũng chẳng còn nhiều người yêu thích món xôi, cái món ăn vừa nhiều tinh bột, vừa đầy bụng của những ngày đói kém xưa cũ. Những gánh xôi buổi sáng cũng ít dần trong cái guồng quay của xã hội hiện đại.
Quán hàng rong nho nhỏ chỉ có thúng xôi với vài chiếc ghế nhựa con con ấy của cô, không chỉ là một thứ văn hoá ẩm thực, mà còn là văn hoá mưu sinh của hàng ngàn, hàng vạn con người trên rẻo đất quê hương tôi. Chồng chết sớm, thúng xôi di động nặng cả chục cân mà người phụ nữ tần tảo ấy vẫn gánh trên đầu hàng sáng, là trang trải cho cuộc sống hàng ngày của gia đình tới bốn miệng ăn, là ước mơ ăn học của hai đứa con cô, là hi vọng nhỏ nhoi cho người mẹ già chạy thận hàng tháng.
Đã lâu rồi, tôi không còn thấy cô đội thúng xôi sáng, ngồi đầu ngõ đon đả chào khách qua đường nữa. Có thể cuộc sống của cô đã khấm khá hơn, cô không còn phải vất vả như trước nữa? Nhưng cũng có thể cô đã đi tìm nghề khác để mưu sinh, để xoay vần với những đổi thay hàng ngày hàng giờ nơi đô thị phồn hoa này.
Thành phố lớn, vẫn luôn bạc bẽo với những ước mơ nhỏ như thế.
BẠN ĐANG ĐỌC
HÀ NỘI - ĂN VÀ NHỚ
Non-FictionTôi thường hay nghĩ vẩn vơ về ngày bé, về những ngày kí ức tuổi thơ trong veo và đầy mơ mộng. Cũng chẳng hiểu sao mà cứ toàn những câu chuyện về những góc phố, những quán ăn. Và bây giờ còn thêm cả những tư lự về bản thân, về cuộc sống. Chắc cũng có...