Phân tích nét đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" Hàn Mặc Tử

47 1 0
                                    

Nếu Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong tất cả những nhà thơ mới thì Hàn Mặc Tử là nhà thơ lạ vào bậc nhất của phong trào Thơ mới. Đọc thơ Hàn thi sĩ ta bắt gặp một tâm hồn thiết tha yêu cuộc sống, yêu thiên cảnh, yêu con người đến khát khao, cháy bỏng; một khát vọng sống mãnh liệt đến đau đớn tột cùng. Trong thơ Hàn, nhiều bài thơ mang khuynh hướng siêu thoát vào thế giới siêu nhiên, tôn giáo…nhưng đó là hình chiếu ngược của khát vọng sống, khát vọng giao cảm với đời. "Đây thôn Vĩ Dạ" là bài thơ hay và tiêu biểu nhất cho phong cách tâm hồn thơ HMT, bài thơ đã được nhà phê bình Hoài Thanh chọn in trong tập "Thi nhân Việt Nam" (1941). Đây có thể xem là một chủ âm trong cây đàn thơ muôn điệu của Hàn Mặc Tử, là một thi phẩm xuất sắc của thi đàn Thơ mới. Hàn Mặc Tử quan niệm “Ta không nên quên thơ ta là thơ quốc âm, ta phải giữ cái tinh thần Việt Nam của ta. Hơn nữa cái tinh thần phương Đông mà rung cảm tâm hồn người ta là nhờ ở cái đẹp kín đáo, cái tình sâu sắc, cái buồn thấm thía”. "Đây thôn Vĩ Dạ" cũng theo tinh thần ấy, bài thơ là sự kết hợp giữa nét truyền thống và hiện đại.

+Cổ điển:

Buổi đầu, để khẳng định cái mới, đề cao Thơ mới, người ta cho rằng Thơ mới đã đoạn tuyệt với thơ cổ. Thực ra, trong quá trình vận động, Thơ mới luôn tiếp nối văn mạch của thơ cổ, tiếp thu tinh hoa thơ cổ. Chịu ảnh hưởng thi ca Pháp nhưng Thơ mới có liên hệ sâu sắc với Đường thi.
- Trong bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ", yếu tố truyền thống trước hết thể hiện ở thể thơ 7 tiếng tuân thủ chặt chẽ hiệp vần, đối, điệp.

- Thi liệu lấy tứ từ thơ cổ: gió, trăng, thuyền, trúc, bến sông, thuyền,…
Hình ảnh hàng cau , lá trúc, vườn cây là hình ảnh cuả thôn quê Việt Nam . Hình ảnh ấy đã trở thành tình tự dân tộc trong ca dao, và tâm hồn VN trong thơ cổ điển. “ Gió đưa cành trúc la đà “( Ca dao ), “ Ngõ trúc quanh co khách vắng teo “ ( Thơ Nguyễn Khuyến ).
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?

Tứ thơ có cái cao rộng trí tuệ cuả dòng trường giang chảy bên trời trong thơ cổ điển ( vì sông trăng cũng chảy ngang bầu trời, như sông Ngân hà ), vưà có cái ấn tượng thân phận mơ hồ sâu xa cuả “ thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa “trong thơ Nguyễn Du, lại có cái cảm thức đời thực cuả những con đò chở khách hay con thuyền đánh cá trở về vào buổi tối.
Nét truyền thống trong thơ trung đại được HMT vận dụng trong việc gợi tả, chấm phá "nắng hàng cau", "vườn ai mướt quá xanh như ngọc", khắc họa bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, tinh khôi của xứ Huế chỉ bằng 2 câu thơ. Cần chi phải tả nhiều, viết nhiều, ngần ấy thôi cũng đủ cho bạn đọc cảm nhận về thôn Vĩ tươi đẹp trong kí ức nhà thơ.

- nhịp điệu thơ nhẹ nhàng: Toàn bài thơ luôn duy trì một âm điệu trầm buồn , sâu lắng , rất thích hợp để diễn tả tâm trạng của nhà thơ .Âm điệu này được tạo nên bởi nhịp điệu đều đều chậm rãi của thể thơ thất ngôn : 2/2/3 hoặc 4/3 với rất nhiều thanh bằng nằm ở vần thơ.Câu thơ của Hàn Mặc Tử về bến sông trăng và thuyền ai gợi nhớ đến vần ca dao thuyền nhớ bến… bến đợi thuyền.

Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì 1 dạ khăng khăng đợi thuyền
(Ca dao)

Và vì thế nó gợi lên một mối tình thương nhớ, đợi chờ man mác, mơ hồ, bâng khuâng.
Toàn bài thơ có 4 từ “ai” đại từ phiếm chỉ cùng xuất hiện trong các câu hỏi tu từ, không chỉ góp phần tạo nên âm điệu lâng lâng, ngỡ ngàng mà còn dẫn hồn người đọc nhớ về một miền dân ca Huế man mác sâu lắng, bồi hồi, thiết tha:

Nhận Xét Các Tác Phẩm Trong Ngữ Văn 12 (Dùng Để Viết Văn)Nơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ