Câu 9. Làm rõ sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quan điểm về sự ra đời của Đảng? Giá trị lý luận và thực tiễn của luận điểm trên ?
Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc rằng cứu nước là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, của cả dân tộc, chứ không thể là công việc của một vài người, của một nhóm người; cũng không phải là của riêng một giai cấp nào. Phải có tổ chức chính trị vững mạnh đứng ra lãnh đạo, tổ chức quần chúng thì cách mạng mới có thể tiến hành, hơn nữa mới gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, nhằm làm cho cuộc đấu tranh ngày càng mở rộng, ngày càng mạnh mẽ, ngày càng dành được thắng lợi nhiều hơn, lớn hơn, để đi đến thắng lợi cuối cùng.
Là người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã rèn luyện Đảng cộng sản thành một đảng cách mạng chân chính, là bộ tham mưu sáng suốt, kiên cường của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, cùng với nhân dân và lãnh đạo nhân dân chiến đấu anh dũng, kiên cường, chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bao thác ghềnh nguy hiểm, đưa đất nước từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do, thống nhất, vững bước xây dựng CNXH, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ đứng lên làm chủ vận mệnh của mình.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam bắt nguồn từ học thuyết của Mác về Đảng cộng sản và trực tiếp từ học thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, đã được Lênin đưa ra từ những năm đầu của thế kỷ XX. Nhưng xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết ấy để dưa đến việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam vào năm 1930. Người đã nêu ra nhiều luận điểm mới, làm phong phú thêm học thuyết Mác-Lênin về Đảng cộng sản, phát triển thêm nhiều vấn đề rất cơ bản, đặc biệt là đối với việc thành lập Đảng cộng sản ở những nước lạc hậu vốn là thuộc địa và phụ thuộc, nơi mà trình độ kinh tế-kỹ thuật vẫn còn rất nặng nề.
Để thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã dốc sức chuẩn bị chu đáo về mặt chủ quan, cũng như thúc đẩy các điều kiện khách quan đi đến chín muồi. Người tiếp tục đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lênin, về chế độ Xô viết mới ra đời.
Việc thành lập Hội VNCMTN-tổ chức tiền thân của Đảng cộng sản Việt Nam, đã có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cho việc chuẩn bị về cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức để xây dựng Đảng sau này. Đây là sự kiện hoàn toàn khác với những tổ chức chính trị khác, cũng nhằm mục tiêu chống đế quốc thực dân đã có ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến lúc đó. Nó cũng giống như hầu hết các Đảng cộng sản khác trong quá trình thành lập của mình. Thông qua tổ chức tiền thân Hội VNCMTN, có cộng sản đoàn làm nòng cốt, Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện một nhiệm vụ rất quan trọng là đào tạo đồi dưỡng lớp cán bộ đầu tiên theo chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối cách mạng mới, làm một cách khẩn trương, công phu, phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam.
Sau khi tiếp nhận và thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã phấn đấu không mệt mỏi cho sự truyền bá và gắn nó với chủ nghĩa yêu nước truyền thống, làm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam phát triển dưới ánh sáng những tư tưởng tiên tiến của thời đại. Thực tiễn ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cho thấy, Nguyễn Ái Quốc đã làm hết mình cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thống nhất với chủ nghĩa Mác-Lênin. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, đưa đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự phát triển mới trong lý luận Mác-Lênin. Sự kiện lịch sử càng làm sáng tỏ hơn kết luận về sự thống nhất giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa Mác-Lênin là cội nguồn của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong điều kiện lịch sử mới. Sự thống nhất đó vừa là nhân, vừa là quả về tính cách mạng triệt để và tính nhân văn sâu sắc. Một điều độc đáo là trong khi Đảng Cộng sản các nước ra đời do sự kết hợp của phong trào công nhân với chủ nghĩa Mác-Lênin, thì Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập trong hoàn cảnh rất đặc biệt của một dân tộc có truyền thống yêu nước phát triển mạnh mẽ, “là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước sôi nổi của nhân dân ta trong những năm 20 của thế kỷ XX”,một sáng tạo rất lớn của Hồ Chí Minh là Người đã vận dụng sáng tạo công thức của Lênin về sự ra đời của một đảng vô sản vào một nước nông nghiệp như nước ta. Người không chỉ truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân mà đồng thời truyền bá vào phong trào yêu nước Việt Nam-một yếu tố phổ quát, trường tồn và có sức mạnh to lớn trong lịch sử phát triển của dân tộc. Như vậy, Người đã kết hợp một cách sinh động yếu tố dân tộc và giai cấp, tạo ra cơ sở xã hội-chính trị rộng lớn chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Sáng tạo này của Hồ Chí Minh thực sự là bước phát triển có tính nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin về sự ra đời và phát triển không ngừng một đảng cách mạng của giai cấp vô sản.
Ở thời kỳ vận động thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh tới sự cần thiết phải có Đảng. Đó là Đảng cách mạng. Trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927), Người chỉ rõ: “Cách mệnh trước hết là phải làm cho dân giác ngộ…Cách mệnh là phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu, cách mệnh là phải hiểu trong triều thế giới, phải bày sách lược cho dân…Cách mệnh là phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách mệnh”. Người gắn liền đảng cách mệnh với người cách mệnh, trong đó nhấn mạnh hai điều cốt yếu: giữ vững chủ nghĩa và ít lòng ham muốn vật chất. Đây thực sự là một tư tưởng lớn có tầm chiến lược, cho đến nay sau gần 80 năm, vẫn còn nguyên tính thời sự và hiện đại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện lịch sử Việt Nam. Trên lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng, tư tưởng đó cũng là sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết về Đảng kiểu mới của VI.Lênin vào điều kiện của đất nước Việt Nam ở phương Đông, khi mâu thuẫn giữa tư sản với vô sản không phải nổi bật lên hàng đầu như ở Châu Âu. Ở Việt Nam, chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản muốn đóng góp được vai trò tiên phong là phải một đảng tiêu biểu cho đạo đức cách mạng. Trong lịch sử phong trào cách mạng thế giới, hiếm có một lãnh tụ nào đặt cao vị trí của đạo đức cá nhân như Hồ Chí Minh đã đặt trong việc xây dựng Đảng. Điều đó phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và ngày càng có cơ sở để khẳng định; quần chúng chỉ thực sự tin theo những người lãnh đạo có đạo đức, gương mẫu về đạo đức. Đảng cộng sản thực sự chỉ là một đảng cách mạng kiểu mới nếu nó tiêu biểu cho sức mạnh trí tuệ của giai cấp công nhân hiện đại, cho tiềm lực tinh thần của dân tộc và tiếp thu được những tinh hoa của thời đại và của nền văn hoá nhân loại.
V.I.Lênin cho rằng, Đảng cộng sản là trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại. Hồ Chí Minh khẳng định, Đảng cộng sản là đạo đức, là văn minh. Vậy là, bản chất của Đảng cộng sản không chỉ là cách mạng, khoa học mà còn là văn hoá nữa. Nói về bản chất của Đảng cộng sản, đặc biệt đáng chú ý là những luận điểm của Hồ Chí Minh về Đảng (Đảng cộng sản Việt Nam). Những luận điểm này được Người đưa ra trong những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau khi Đảng thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình: lãnh đạo cách mạng và trở thành đảng cầm quyền. Người xác định rõ mục đích của Đảng là phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Nói về Đảng trong thời kỳ kiến thiết chế độ mới, Người cho rằng : “Ngày nay nhiệm vụ của Đảng ta là lãnh đạo quần chúng đánh thắng tình trạng nghèo nàn và lạc hậu, xây dựng đời sống ấm no sung sướng cho nhân dân”.
Sau khi Đảng ra đời đã lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và từ đó trở đi, đã ở vị thế đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh nói tới 12 điều xây dựng Đảng chân chính cách mạng (trong tác phẩm sửa đổi lối làm việc, năm 1947). Nói tới Đảng chân chính cách mạng, Người chú trọng không chỉ trình độ, năng lực lãnh đạo quần chúng mà còn cả kinh nghiệm và bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, lối sống gương mẫu, tận tụy hy sinh, phục vụ dân chúng, làm công bộc, đầy tớ trung thành của dân. Người đòi hỏi rất cao thái độ dũng cảm và sự thành thật trong phê bình và tự phê bình của Đảng, của cán bộ, đảng viên. Chỉ như vậy Đảng mới được dân tin, dân phục, dân mến, dân ủng hộ và bảo vệ. Chỉ như vậy Đảng mới là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính. Có thể nói Đảng cộng sản Việt Nam trưởng thành qua một quá trình đấu tranh dành độc lập chủ quyền và giải phóng dân tộc, bởi vì Người hiểu hơn ai hết sức mạnh của Đảng không chỉ là biểu hiện ở lòng nhiệt thành cách mạng, mà còn biểu hiện ở trình độ cao. Ở Hồ Chí Minh, tính biện chứng của lý luận thể hiện trong sự thống nhất giữa thế giới quan và nhân sinh quan. Lý luận về xây dựng Đảng, theo Người, không chỉ là phương pháp, cách thức hành động, mà cao hơn, là nhân cách người cộng sản, là đạo đức người làm cách mạng. Trong thực chất cách mạng và khoa học, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh mối liên hệ tất yếu có tính quy luật của các lĩnh vực tri thức, cũng như tính quy luật của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong xây dựng Đảng. Bản chất của cách mạng và khoa học của Đảng cộng sản Việt Nam chính là bản chất cách mạng và khoa học trong tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng vào thực tiễn cách mạng sối động của nhân dân Việt Nam. Đó cũng là thực chất của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng.
Như Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng cộng sản Việt Nam là chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, có khả năng đoàn kết , “tập hợp”, “lôi kéo” các tầng lớp nhân dân khác đứng lên làm cách mạng. Đây là “đội tiên phong, là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc”. Hơn nữa, nó còn phải là “đội tiên phong dũng cảm và đội tham mưu sáng suốt”, để xứng đáng với vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ lịch sử mới. Bao giờ Đảng cũng “tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân”, “trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc”, “ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”. Đó là độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân, ấm no hạnh phúc cho mỗi con người, xây dựng đất nước giàu mạnh đi lên chủ nghĩa xã hội, sống hoà bình hữu nghị với tất cả các dân tộc khác.
Hồ Chí Minh còn chỉ rõ, Đảng cầm quyền và lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, làm cho con người lao động trở thành người chủ, có sức mạnh. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, là bản chất của chế độ mới. Đảng lãnh đạo chính quyền là nhằm thiết lập và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, mọi quyền lực pahỉ thuộc về nhân dân, nếu làm trái nguyên tức đó thì đảng sẽ thoái hó, biến chất. Bởi vậy phải xây dựng cơ chế Đảng cầm quyền, mà cái cốt lõi là mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. đảng phải trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách về các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng nhiều cách tác động vào các tổ chức trong hệ thống chính trị, trong nhân dân để biến những đường lối đó thành hiện thực. Một khi có đường lối, chủ trương đúng đắn thì việc tổ chức thực hiện trong thực tiễn do đội ngũ cán bộ quyết định. Ngay việc hoạch định đường lối, chủ trương cũng do đội ngũ cán bộ tham gia, như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: cán bộ là cái gốc của công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém.
Người còn nhấn mạnh: Dân làm chủ, mọi quyền hành, lực lượng đều ở nơi dân, nhân dân tham gia vào quản lý Nhà nước; bộ máy lãnh đạo phải là người lãnh đạo nhân dân, không được làm quan cách mạng; cho nên phải lấy dân làm gốc, mỗi người phải biết quyền hạn và bổn phận của mình, phải có kiến thức để tham gia xây dựng đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cần quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Tuy nhiên, để Đảng cộng sản Việt Nam phát triển mạnh mẽ và phát huy tối đa chức năng và nhiệm vụ của nó, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm minh và tự giác trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng, đồng thời xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng để làm nòng cốt cho việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong nhân dân, thường xuyên tự chỉnh đốn tự đổi mới. Vì vậy, Đảng cộng sản Việt Nam mới vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành với nhân dân. Đảng lãnh đạo, dân làm chủ. Phải chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản muốn đóng được vai trò tiên phong phải là một đảng tiêu biểu cho đạo đức cách mạng. Trong lịch sử phong trào cách mạng thế giới, hiếm có một lãnh tụ nào đặt cao vị trí của đạo đức cá nhân như Hồ Chí Minh đã đặt trong việc xây dựng Đảng. Điều đó phù hợp với thực tiễn Việt Nam và ngày càng có cơ sở để khẳng định; quần chúng chỉ thực sự tin theo những người lãnh đạo có đạo đức, gương mẫu về đạo đức.
Câu 19. Trình bày những chuẩn mực đạo đức cách mạng theo tư tưởng HCM. Vận dụng những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới của Người vào việc rèn luyện đạo đức của bản thân chúng ta phải làm gì?
* Trung với nước hiếu với dân:
- Đây là hạt nhân cơ bản bản nhất trong tư tưởng đạo đức HCM. Đó là phẩm chất hàng đầu, quan trọng nhất, bao trùm nhất.
+ Theo HCM, Trung là trung với nước,với Đảng, với lý tưởng CM còn hiếu không chỉ hạn hẹp như quan niệm đạo đức truyền thống, mà bao hàm một nội dung sâu rộng hơn.
+ Trung với nước là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nước ở đây là nước của dân, còn dân là chủ nhân của đất nước.
+ Với HCM, Hiếu với dân có nghĩa là bao nhiêu quyền hạn là của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu lực lượng đều ở nơi dân...
+ Tư tưởng hiếu với dân không còn dừng kại ở chỗ thương dân với tính chất là đối tượng cần phải dạy dỗ ban ơn, mà là đối tượng phải phục vụ hết lòng.
- Có thể nói rằng từ trung với vua hiếu với cha mẹ chuyển thành trung với nước, hiếu với dân là một sự đảo lộ trong quan niệm đạo đức truyền thống.
- Trung với nước, hiếu với dân suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của tổ quốc, vì CNXH nhiệm vụ nào cũng phải hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
* Yêu thương con người:
- Đây là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Phẩm chất đó là sự kế thừa truyền thóng nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo công sản, tinh thần nhân văn của nhân loại, cùng với sự thể nghiệm của HCM qua hoạt động CM thực tiễn.
- Tình yêu thương đó là một tình cảm rộng lớn, trước hết giành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột không phân biệt màu da, sắc tộc...
- Xuất phát điểm tình yêu thương con người ở HCM vừa sâu xa vừa rất cụ thể và gần gũi.
- Điểm nổi bật trong tình yêu thương con người của HCM đó là thương yêu nhân dân.
- HCM là hiện thân của lối sống tình nghĩa. Đề cao tình yêu thương con người, đông thời, Người truyền cho con người sức mạnh, tạo điều kiện cho họ phát triển toàn diện cá nhân, Người tìm mọi cách nâng con người lên với một tình cảm rộng lượng bao dung.
* Cân, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư:
- Đây là nét đặc trưng của đạo đức CM theo quan điểm HCM, một phẩm chất đạo đức trung tâm, gắn liềm với hoạt động hằng ngày của mỗi người.
+ Người coi cần, kiệm, liêm, chính, là bố dức tính chủ yếu của con người, nhất là đíi với cán bộ đảng viên. Nó có quan hệ mật thiết với nhau như bốn mùa của trời, 4 phương của đất, thiếu một mùa thì không thành trời, thiếu một phương thì không thành đất, thiếu một đức thf không thành người.
+ Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư có quan hệ mật thiết với nhau. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư; ngược lại chí công vô tư, một lòng một dạ vì những việc ích quốc lợi dânthì nhất định sẽ thực hiện được cầ, kiêm, liêm chính. Và có chí công vô tư thì mới nêu cao được chủ nghĩa tập thể, quét sạch được chủ nghĩa cá nhân.
- Có thể nói rằng: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là cái cầm để làm việc, làm người, làm cán bộ.
- Bồi dưỡng phẩm chất này sẽ làm cho con người vững vàng trước mọi thử thách.
* Tinh thần quốc tế trong sáng:
- Đây là phẩm chất đạo đức, là yêu cầu đạo đức nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ quốc gía dân tộc.
- Đó là tinh thần tứ hải giai huynh đệ mà người đã tiếp thu được của nho giáo và đã cải biến bằng mệnh đề bốn phương vô sản đều là anh em .
- Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân VN với các dân tộc bị áp bức với nhân dân lao động các nước, với những người tiến bộnhằm mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc.
- Theo HCM, tinh thần quốc tế trong sáng là tinh thần giúp bạn là tự giúp mình , nó hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa sô- vanh hay chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.
- Đường lối chính trị của đảng lãnh đạo là định hướng đúng đắn cho việc bồi dưỡng tinh thần quốc tế trong sáng ở mỗi người.
Ngoài những chuẩn mực đạo dức trên theo quan điểm của HCM, con người còn cần có những đức tính quý báu khác như: tinh thần yêu lao động, nỗ lực học tập, cầu tiến bộ, ...
Những nguyên tắc trong rèn luyện đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh không phải chỉ thông qua những tác phẩm của Người về đạo đức mà quan trọng hơn là phải thông qua chính hành vi được thể hiện trong toàn bộ hoạt động thực tiễn của Người; thông qua mẫu mực đạo đức trong sáng mà Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta học tập. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đã trở thành một đặc trưng nổi bật của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Vì vậy, trong việc rèn luyện đạo đức cách mạng, Người không chỉ nêu lên những nội dung của việc tu dưỡng để có đạo đức cách mạng mà Người còn chỉ rõ những nguyên tắc trong rèn luyện đạo đức cách mạng.
Muốn có đạo đức cách mạng: Trước hết nói phải đi đôi với làm và luôn nêu gương về đạo đức. Điều này đã được Người đề cập trong Đường Kách mệnh khi nói đến tư cách của một người cách mệnh. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình Người đã giáo dục mọi người và ngay chính bản thân mình đã thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ nhất. Đối với mỗi người đều nói nhiều mà làm ít, nói mà không làm, hơn nữa nói một đằng, làm một nẻo thì chỉ đem lại hậu quả phản tác dụng. Hãy làm theo tôi nói, đừng làm theo tôi làm , đó là thói đạo đức giả của các giai cấp bóc lột. Còn việc nêu gương thì không ở lĩnh vực nào mà vấn đề nêu gương lại được đặt ra như trong lĩnh vực đạo đức. Trong gia đình: Đó là tấm gương của bố mẹ đối với con cái, của anh chị đối với các em; trong nhà trường thì đó là tấm gương của thầy, cô giáo đối với học sinh; trong tổ chức, tập thể, Đảng, Nhà nước là tấm gương của những người đứng đầu, phụ trách, lãnh đạo, của cấp trên đối với cấp dưới; trong xã hội thì đó là tấm gương của người này đối với người khác; những gương Người tốt việc tốt mà Hồ Chí Minh đã dầy công phát hiện thu thập, chỉ đạo việc in thành sách để mọi người học tập và làm theo là một việc làm rất cụ thể. Một bài diễn văn hay không bằng một tấm gương sống - điều mà Hồ Chí Minh nói về Lê-nin đã đặt ra cho việc xây dựng đạo đức mới một nguyên tắc rất cơ bản là sự nêu gương về đạo đức. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương chung cho cả dân tộc và cho các thế hệ người Việt Nam mãi mãi về sau học tập.
Nguyên tắc thứ hai để rèn luyện đạo đức cách mạng là xây đi đôi với chống. Bởi vì trong cuộc sống hàng ngày, những hiện tượng tốt - xấu, đúng - sai, cái đạo đức và cái vô đạo đức vẫn còn đan xen nhau, đối chọi nhau, thông qua hành vi của mỗi một con người khác nhau. Thậm chí, những đan xen và đối chọi ấy còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi một con người. Do đó việc xây và chống trong lĩnh vực đạo đức hoàn toàn là điều không đơn giản. Xây phải đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây. Trong khi xây dựng, bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức mới phải đồng thời chống lại cái xấu, cái sai, cái vô đạo đức. ở đây điều quan trọng là phải phát hiện sớm, hướng cho mọi người vào cuộc đấu tranh cho sự trong sạch và lành mạnh về đạo đức. Để xây và chống có hiệu quả phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi; Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động rất nhiều phong trào như vậy. Đó là phong trào thi đua thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu (năm 1952); đó là phong trào: 3 xây, 3 chống năm 1963)... Có phong trào, có cuộc vận động cho toàn Đảng, toàn dân; nhưng lại có phong trào, có cuộc vận động riêng cho từng ngành, từng giới. Thông qua đó mà lôi cuốn mọi người vào cuộc đấu tranh nhằm xây gì, chống gì rất cụ thể, rõ ràng để mọi người phấn đấu, tự bồi dưỡng và nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng.
Nguyên tắc thứ ba là: Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Bởi mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày, đó là công việc kiên trì, bền bỉ suốt đời. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nêu lại tấm gương của người xưa: Mỗi buổi tối đều tự kiểm điểm để bỏ đỗ đen, đỗ trắng vào hai cái lọ, để cứ nhìn vào đó có thể biết mình tốt xấu ra sao? Trong thực tiễn, có người trong lúc đấu tranh thì hăng hái, trung thành, không sợ nguy hiểm, không sợ gian khổ, hy sinh, nhưng đến khi có ít quyền hạn thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, biến thành người có tội với cách mạng. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh mới đưa ra một kết luận khái quát: Một dân tộc, một Đảng và mỗi một con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Cho nên trong khi ta kiên trì và đẩy mạnh cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, làm cho văn minh chiến thắng bạo tàn thì đồng thời phải loại trừ những cái xấu xa do chế độ cũ để lại trong xã hội và trong mỗi con người .
Đối với mỗi con người việc rèn luyện đạo đức cách mạng phải được thực hiện trong hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như trong đời công, sinh hoạt, học tập, lao động, chiến đấu; trong mọi mối quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, từ nhỏ đến lớn, từ gia đình đến nhà trường, đoàn thể, xã hội; từ quan hệ bạn bè đến đồng chí, anh em, cấp trên, cấp dưới, với Đảng, với nước, với dân và cả trong quan hệ quốc tế. Có rèn luyện công phu theo các nguyên tắc trên đây thì con người mới có được phẩm chất đạo đức tốt đẹp, những phẩm chất ấy sẽ ngày càng được bồi đắp và nâng cao.