Buổi sáng hôm sau, chúng tôi vào làng mua một cái bẫy chuột rồi đem xuống nhà. Chỉ trong độ một giờ, chúng tôi đã bắt được tới mười lăm con to bự. Rồi chúng tôi đem cất cẩn thận ở dưới gầm giường dì Saly. Nhưng đến lúc chúng tôi đang đi tìm bắt nhện thì thằng bé Tomas Phelps trông thấy cái bẫy chuột để đó, nó mở ra xem. Cả lũ chuột chạy ra toán loạn, vừa lúc ấy, dì Saly bước vào. Chúng tôi trở về thì thấy dì ấy đang đứng trên đầu giường kêu la ầm ĩ, còn lũ chuột thì chạy thục mạng. Dì lấy roi đánh hai đứa chúng tôi một trận.
Chúng tôi bắt được một lũ nhện, rệp, ếch nhái, sâu bọ, chúng tôi còn muốn lấy cả tổ ong bầu vẽ, nhưng không thành công. Cả gia đình ong còn đang ở trong tổ. Chúng tôi cứ đứng chờ mãi, định bụng làm cho chúng mệt lử rồi bắt. Nhưng ngược lại chúng không tỏ vẻ mệt chút nào. Chúng tôi đành bỏ đi tìm rắn, bắt được vái chục con rắn cỏ, bỏ vào một cái bị rồi đem về buồng. Vừa lúc ấy đền giờ ăn cơm tối. Nhưng cái bị không buộc chặt ở trên miệng thành ra rắn bò đi hết. Chốc chốc lại thấy một con từ trên trần nhà rơi xuống. Mà nó lại rơi vào đĩa thức ăn, vào lưng, vào gáy mình. Con nào trông cũng đẹp, nhưng đối với dì Saly thì khác. Dì ấy thấy rắn thì kinh tởm lắm. Mỗi khi có con rắn rơi xuống dì ấy lại rú lên và chạy mất hút. Tôi chưa thấy người đàn bà nào mà sợ rắn như thế. Phải đến một tuần lễ sau khi cái đám rắn mới đi ra hết khỏi nhà. Dì Saly vẫn còn sợ. Thật là lạ, nhưng thằng Tom nó bảo là đàn bà ai cũng thế cả.
Cứ mỗi khi có một con rắn bò qua chỗ dì ấy thì chúng tôi lại bị thêm một trận đòn. Tôi thì không sợ đòn, vì nó cũng chẳng đau đớn gì. Tôi chỉ ngại phải đi bắt lũ rắn khác. Chưa bao giờ thấy có cái buồng nào lại vui như cái buồng của Jim khi tất cả những con ấy bò ra nghe âm nhạc và đến bên cạnh Jim. Jim không lúc nào được yên tâm mà chợp mắt, vì khi những con rắn ngủ thì chuột lại bò ra, khi chuột quay vào thì rắn lại ra gác cho nên lúc nào Jim cũng thấy có một bọn ở dưới chân, một bọn ở trên đầu; Jim định tìm một chỗ khác nằm thì lũ nhện lại bò tới. Hắn bảo nếu mà hắn được thoát ra lần này thì sẽ không bao giờ muốn làm tù nhân nữa, có trả tiền hắn cũng không thiết.
Ba tuần lễ sau, mọi việc đều ổn cả. Chiếc áo đã được đưa vào trước, mỗi lần có một con chuột cắn thì Jim lại nhổm dậy viết một dòng nhật ký; khi mực còn ướt, bút đã làm xong, chữ và dấu hiệu đã khắc cả lên hòn đá xay; chân giường đã cưa đứt làm đôi, và chúng tôi đã phải ăn hết mùn cưa. Làm xong cái đó, chúng tôi bị đau bụng dữ dội tưởng như sắp chết. Chú Silas đã mấy lần viết thư về đồn điền ở dưới Orleans để báo cho người lên đem anh da đen ấy về, nhưng không thấy trả lời, vì ở dưới đó làm gì có đồn điền ấy. Sau cùng, chú ấy bảo rằng sẽ đăng tin Jim lên báo St Louis và Orleans. Khi chú ấy nhắc đến St Louis làm tôi giật mình lạnh toát cả người. Lúc đó thằng Tom quyết định viết thư nặc danh.
- Là cái gì? - Tôi hỏi.
- Là để báo cho người ta biết đang có chuyện gì. Khi trước, Louis thứ mười sáu định trốn khỏi ngục thì có một cô gái hầu cận làm việc đó. Thường thường là mẹ người bị giam đổi quần áo cho con, mẹ thì ở lại, còn người con thì cải trang mặc quần áo mẹ để trốn ra. Chúng mình cũng làm thế.
- Nhưng việc gì phải báo cho người ta. Người nào biết thì mặc họ.
- Tao biết rồi, nhưng nếu mình không báo cho họ biết thì không có ai và không có gì can thiệp đến chúng mình cả. Thành ra tất cả những việc vất vả khó khăn chẳng có giá trị gì, không nghĩa lý nào hết ư?
- Tao lại thích thế.
Nó nhìn tôi dè bỉu.
- Mày đừng nói nữa cho tao nhờ.
Tôi nói:
- Tao không phản đối đâu, mày làm thế nào cũng được. Thế mày tìm đâu ra người hầu gái ấy?
- Mày sẽ là người hầu gái đó. Giữa nửa đêm, mày luồn vào và mặc áo vàng đó vào.
- Thế thì được, nhưng tao mặc quần áo của tao thế này thì cũng đưa được thư vào chứ sao?
- Như thế thì mày lại không ra người hầu gái cận nữa.
- Nhưng có ai nhìn tao đâu?
- Chẳng sao. Mình làm là vì nhiệm vụ, chứ việc gì phải lo nghĩ rằng có ai trông thấy mình không. Mày không hiểu gì cả ư?
- Được, tao là người hầu gái, thế còn ai là mẹ của Jim?
- Tao là mẹ Jim. Tao sẽ mặc một cái áo của dì Saly.
- Được, vậy lúc tao và Jim trốn đi, mày phải ở lại trong nhà giam đó.
- Không phải chỉ có thể. Tao sẽ nhét rơm rạ vào đầy quần áo Jim và để trên giường giả làm mẹ hắn. Jim sẽ mặc quần áo của dì Saly tao đem đến, và cả ba chúng mình cùng trốn. Khi một người tù nhân vào loại nổi tiếng trốn đi, thì người ta gọi đó là vượt ngục.
Thế rồi Tom viết thư nặc danh, và đêm đó tôi mặc cái áo vàng của đàn bà vào, đem thư nặc danh đến nhét xuống dưới cửa, đúng như thằng Tom dặn.
Thư viết:
Chú ý: Sắp có chuyện lớn xảy ra. Phải để ý cho kỹ.
Người bạn vô danh.
Đêm sau, chúng tôi dán một cái tranh do thằng Tom vẽ, bằng máu có một cái sọ người với hai cái xương chéo dán ở cửa trước. Và đêm tới nữa lại dán ở cửa sau với một cái tranh vẽ quan tài. Cả gia đình đều run sợ. Cánh cửa đóng mạnh cũng làm cho dì Saly giật mình. Dì ấy sợ không dám đi ngủ nhưng không nói ra. Thế là công việc tiến hành rất tốt. Sáng sớm hôm sau vừa lúc trời rạng thì chúng tôi đã viết xong một bức thư nữa và tự lấy làm lạ rằng không hiểu tại sao mình lại tài thế. Đến bữa tối, họ nói rằng mấy anh da đen sẽ đứng gác suốt đêm ở cả hai cửa đằng trước, đằng sau nhà. Thằng Tom tụt xuống cột đèn dán cái thư đó vào gáy anh da đen rồi quay lên. Thư viết thế này:
"Đừng phản bội lại tôi, tôi muốn là người bạn của ngài. Hiện nay, đang có một toán giết người rất nguy hiểm sẽ cướp tên da đen chạy trốn của ngài, và họ khuyên ngài đừng ngăn cản họ. Tôi là một người trong toán họ, nhưng tôi muốn từ bỏ chúng và sống một cuộc đời lương thiện, cho nên tôi muốn báo cho ngài biết. Họ sẽ từ phía Bắc đi xuống, qua hàng rào, vào đúng nửa đêm, mang theo một chìa khóa giả vào buồng tên da đen để cướp hắn ra. Tôi sẽ đứng gần đó, nếu thấy có gì nguy hiểm thì tôi thổi một tiếng còi. Khi nào chúng đến gần thì tôi sẽ không thổi còi mà kêu be be như một con cừu. Rồi trong khi họ tháo dây xích thì ngài hãy đến mà khóa chặn họ ở bên trong và có thể giết họ như thế nào là tùy ngài. Ngài đừng làm gì khác ngoài các cách tôi đã bảo ngài trên đây; nếu không thì họ sẽ nghi ngờ là có chuyện và sẽ hú lên gọi cả bọn đến giải thoát. Tôi không đòi hỏi một phần thưởng gì cả, mà chỉ biết rằng tôi đã làm một việc chân chính".
Người bạn vô danh
Sau khi ăn sáng, chúng tôi thấy khoan khóai bèn ra sông vớt cái xuồng lên rồi đi câu cá, lại mang theo cả thức ăn buổi trưa. Mãi đến gần tối, chúng tôi mới về, thấy cả nhà đang rất lo sợ, Ăn tối xong, họ giục chúng tôi đi ngủ, nhưng đến lưng chừng cầu thang, thấy dì Saly đã quay lưng đi rồi, chúng tôi lẻn xuống tủ lấy một ít đô la ăn nguội đem về buồng và đi ngủ, cho đến một giờ rưỡi thì dậy. Thằng Tom mặc áo của dì Saly nó mới lấy cắp được và đem đồ ăn đi. Nó bảo tôi:
- Bơ đâu rồi?
- Tao bỏ một miếng to vào bánh mì rồi.
- Sao không có đấy?
- Không có bơ cũng được.
- Mày xuống nhà lấy đi. Tao đi nhét rơm rạ vào quần áo Jim để giả làm mẹ hắn, rồi tao sẵn sàng chờ ở đó kêu be như con cừu, hễ mày đến thì cứ vào ngay.
Rồi nó đi ra, và tôi xuống nhà hầm. Tôi lấy miếng bánh rồi tắt đèn, lẩn nhành qua nhà dưới. Bỗng dì Saly tay cầm một cây nến ở đâu đi tới, tôi vội bỏ miếng bánh vào trong mũ rồi chụp lên đầu. Trông thấy tôi, dì ấy hỏi:
- Cháu ở dưới nhà hầm lên ư?
- Thưa... vâng.
- Cháu ở dưới đó làm gì?
- Không làm gì ạ.
- Đúng không?
- Đúng ạ.
- Thế thì đang đêm thế này xuống đó làm gì?
- Thưa ... cháu không biết ạ.
- Không biết? Đừng trả lời dì như thế, Tom. Dì muốn biết cháu làm gì ở dưới đó?
- Cháu chẳng làm gì cả, dì Saly ạ, cháu thề đấy.
Tôi đã tưởng dì ấy để cho đi, vì mọi lần dì vẫn làm như vậy. Nhưng có lẽ dạo này có nhiều chuyện bất thường xảy ra trong nhà nên dì ấy để ý đến từng cái nho nhỏ. Dì ấy nói rất cương quyết.
- Vào trong phòng và đừng chờ ở đó. Để dì xem thế nào đã, rồi sẽ nói chuyện.
- Dì ấy đi rồi, tôi mở cửa bước vào phòng khách. Thật ngạc nhiên, một đám đông đang ở trong phòng. Mười lăm người ngủ trại, người nào trong tay cũng cầm súng cả. Tôi ngồi phịch xuống. Họ đang thì thầm nói chuyện với nhau, trông ai cũng có vẻ bực mình, khó chịu, nhưng vẫn làm ra bộ như không có gì. Nhưng tôi biết, vì thấy họ cứ nhấc mũ ra lại đội mũ vào, đứng lên ngồi xuống, tay thì vân vê khuy áo. Chính tôi cũng sốt ruột, nhưng tôi không bỏ mũ ra như họ.
Tôi mong dì Saly đến đuổi tôi ra ngoài để tôi còn chạy ra bảo thằng Tom là hai đứa đã làm to chuyện quá và bây giờ phải cùng với Jim mà chạy trốn đi trước khi bọn người kia bực mình lên vớ được chúng tôi thì chết.
Rồi lát sau dì ấy đến hỏi tôi nhiều câu, nhưng tôi không thể nào trả lời ngay được vì tôi không biết trả lời dì như thế nào. Những người kia thì đang nóng ruột muốn khởi sự ngay. Trông họ như đang điên lên cả. Họ bảo chỉ còn mấy phút nữa là đến nửa đêm. Vài ba người khác thì bảo hãy khoan, để chờ tiếng be của con cừu kêu lên làm hiệu đã. Còn dì Saly thì cứ hỏi dồn tôi mãi, tôi sợ quá run bắn người lên và như sắp ngã gục xuống. Trong phòng mỗi lúc một nóng nực. Miếng bơ để trong mũ tôi bắt đầu chảy, chảy ròng ròng xuống qua mang tai và chạy xuống gáy. Bỗng có một người nói:
- Để tôi đi đến đó trước đã, chờ chúng nó tới là bắt.
Tôi suýt nữa quỵ xuống, một vệt bơ chảy xuống giữa trán. Dì Saly trông thấy, tái bệch cả mặt và kêu lên:
-Trời ơi, thằng bé làm sao thế này? Đúng là nó bị đau màng não rồi đây, óc chảy cả ra đây này.
Mọi người chạy đến xem. Cô ấy nhấc cái mũ lên đầu tôi ra, miếng bánh cũng rơi xuống, chỗ bơ còn lại thì dính lên đầu; thế là cô ấy nắm lấy tôi lay một hồi nói:
- ồ, cháu làm cho dì sợ quá.Thật may là không đến nỗi quá tệ như dì tưởng. Sau cháu không nói ngay cho dì khỏi lo lắng. Thôi bây giờ cháu đi ngủ đi, đừng có ló mặt ra đây từ giờ đến sáng nữa nhé.
Chỉ một giây đồng hồ, tôi đã nhảy lên gác, tụt ngay xuống cột đèn và lẩn trong bóng tối đi ra phía hiên nhà. Tôi lo quá không nói gì được nữa. Nhưng tôi bảo thằng Tom thật nhanh là phải chuồn ngay đi, đừng chậm một phút, trong nhà đầy những người, họ mang cả súng.
Mặt nó sáng lên, nó hỏi:
- ồ, thật thế hả? Huck này, nếu diễn lại cái trò này, tao tính có thể kéo được đến hai trăm người tới. Hay là mình hoãn đến...
Tôi ngắt lời nó:
- Phải đi ngay thôi. Jim đâu?
- Bên cạnh mày, cứ giơ tay ra với là sờ thấy. Jim mặc xong quần áo rồi. Bây giờ chúng mình chuồn ra ngoài và làm hiệu nhé.
Ngay lúc đó, chúng tôi nghe thấy tiếng chân rầm rập của mọi người, rồi tiếng mở khóa, một người nói:
- Tôi bảo là hãy còn sớm quá; chúng nó chưa đến, cửa còn khóa. Vài người vào sẵn bên trong phục ở chỗ tối, hễ chúng nó đến là giết luôn, còn những người kia đứng dàn ra một quãng và nghe ngóng.
Họ bước vào, nhưng trong đêm tối không nhìn thấy chúng tôi. Suýt nữa họ giẫm phải chúng tôi trong khi chúng tôi đang chui xuống gầm giường. Nhưng chúng tôi chui lọt và nhẹ nhàng chuồn ra ngoài. Jim ra trước, rồi đến tôi. Tom ra sau cùng. Đó là theo lệnh của Tom. Chúng tôi bò ra phía cửa, Tom bảo chúng tôi dừng lại nhìn qua khe cửa trước đã, nhưng tối quá chẳng thấy gì. Nó lấy khuỷu tay huých một cái ra hiệu cho Jim bò lên trước. Nó đi sau cùng. Nó lại ghé tai vào khe của nghe ngóng, vẫn thấy bước chân đi lạo xạo bên ngòai. Sau đó, nó huých chúng tôi, chúng tôi bò đi lom khom, nín thở, không có một tiếng động, và cứ thế ra đến hàng rào theo kiểu bọn người da đỏ. Tôi và Jim trèo qua rồi, nhưng thằng Tom lại móc quần áo vào đầu cọc cứ lúng túng ở đó mãi. Bỗng nghe thấy tiếng chân chạy đến, nó phải giằng mạnh làm gẫy cả cọc kêu đánh rắc một cái. Nó vừa kịp chạy theo chúng tôi thì có tiếng người quát:
- Ai đấy? Trả lời mau, nếu không tao bắn bỏ!
Chúng tôi không trả lời, cứ cắm đầu cắm cổ chạy. Một đám người lao đến. Đoàng, đoàng, đoàng! Đạn hay vèo vèo xunh quanh chúng tôi. Họ la lên:
- Chúng đây rồi! Chúng chạy ra bờ sông! Anh em ơi, đuổi theo đi. Thả chó ra mau lên!
Họ ùa đến. Chúng tôi nghe rất rõ vì họ đi giày ủng, miệng la hét, còn chúng tôi không đi giầy ủng và cũng không la hét. Chúng tôi rẽ vào con đường nhỏ dẫn đến xưởng. Lúc họ chạy gần tới sau lưng, chúng tôi tránh sang bên nấp vào bụi để cho họ đi qua, rồi lại bước ra chạy sau lưng họ. Lũ chó chạy đến, sủa váng cả lên nghe như có đến một triệu con. Chúng tôi đứng nguyên đó chờ cho lũ chó đến nơi. Toàn là chó nhà nên khi thấy chúng tôi, chúng quẫy đuôi mừng rồi lại kéo chạy lên phía trước theo bọn họ đang lục sục la hét. Rồi chúng tôi quay ngược lên phía trên sông, miệng huýt sáo đàng hoàng ở sau lưng họ; đi đến gần xưởng rồi rẽ vào bụi cây chỗ buộc cái xuồng của tôi. Chúng tôi nhảy cả vào xuồng chèo ra giữa sông, và cố gắng không làm gì quá ầm ĩ. Thế là chúng tôi chèo đi, nhẹ nhàng, thoải mái, nhằm phía hòn đảo nơi tôi đã giấu chiếc bè. Chúng tôi vẫn còn nghe tiếng người la hét, tiếng chó sủa ở dọc bờ sông. Cho đến lúc đã đi xa, những tiếng đó mới mờ dần và mất hẳn. Bước lên bè rồi, tôi nói:
- Jim, bây giờ anh được tự do rồi, và chắc sẽ không bao giờ còn phải làm nô lệ nữa.
Chúng tôi đứa nào cũng khóai trá lắm. Nhưng thằng Tom nó khóai hơn cả, vì nó bị một viên đạn vào bắp chân.
Tôi và Jim nghe thấy thì không còn vui được nữa. Vết thương làm nó đau lắm, máu chảy nhiều. Chúng tôi cho nó nằm vào trong lều rồi xé một cái áo của quận công còn để đó ra băng bó cho nó. Nhưng nó nói:
- Để tao làm lấy. Đừng dừng ở lại đây, như thế cuộc vượt ngục mới thành. Cho bè đi đi thôi! Mình làm rất tài, tài thật đấy. Tao nghĩ rằng mình có cái tài của Louis thứ mười sáu đấy, không, chúng mình còn vượt xa hơn thế nữa. Chúng mình làm dễ dàng như chơi. Thôi, lên đường đi, nhanh lên.
Jim và tôi nhìn nhau suy nghĩ. Một phút sau, tôi bảo
- Jim nói đi!
Jim nói:
- Tôi nghĩ thế này, cậu Huck ạ. Giả sử cậu là người được cứu thoát, và một trong những người cứu cậu bị thương thì liệu cậu có đang tâm để cho người bị thương đó nằm chờ chết không? Chắc là không! Và Jim cũng không làm như vậy đâu. Nếu không có bác sĩ thì nhất định Jim không đi khỏi nơi này cho dù phải chờ bốn mươi năm nữa.
Tôi nói Jim nói rất thật lòng. Tôi bảo Tom là để tôi đi tìm bác sĩ. Nó nhất định khăng khăng không nghe; nhưng Jim và tôi cũng không chịu. Nó định bò ra ngoài tự tay tháo bè nhưng chúng tôi cũng không cho nó làm thế. Nó cằn nhằn một hồi, xong rồi cũng thôi.
Thấy tôi chuẩn bị buồng sẵn sàng, nó nói:
- Thôi được, nếu như mày nhất định đi thì tao bảo mày những việc cần làm khi vào trong làng, Mày đóng cửa vào, bịt mắt bác sĩ và trói chặt lại, bảo ông ta thế phải im không nói gì, rồi để một bọc vàng vào tay ông ta, đưa ông ta đi khắp các lối tắt và đường hẻm trong chỗ tối, rồi dắt ông ta xuống xuồng, đi một lượt vòng quanh các hòn đảo. Mày phải lục lọi khắp các túi của ông ta, không để ông ta giữ một mẩu phấn nào, nếu không ông ta sẽ lấy phấn đánh dấu vào cái bè này để rồi sau lại tìm thấy được.
Tôi hứa sẽ làm đúng như vậy, còn Jim phải nấp trong rừng cho đến khi nào thấy bác sĩ đến và đi khỏi bè thì mới trở lại.
Bác sĩ là một người đã nhiều tuổi và có vẻ hiền lành. Tôi đánh thức ông ta dậy và bảo ông ấy rằng hai anh em tôi đang ở trên đảo Tây Ban Nha đi săn bắn từ chiều hôm qua trên một cái bè. Đến giữa đêm, chẳng may nằm mê bóp phải cò súng. Súng nổ trúng ngay vào chân. Cho nên mời bác sĩ đến đó chữa cho và đừng nói gì về chuyện này, đừng cho ai biết, vì đêm nay chúng tôi muốn trở về nhà làm cho người nhà phải ngạc nhiên. Ông ta hỏi:
- Người nhà của cháu là ai vậy?
- Nhà Phelps, ở dưới kia.
- à, ra vậy.
Lát sau, ông ấy lại hỏi:
- Cháu nói bạn cháu bị thương như thế nào nhỉ?
- Bạn ấy mơ ngủ, rồi bị trúng đạn.
- Lạ nhỉ!
Thế rồi ông bác sĩ thắp đèn, xách túi thuốc đi ra. Nhưng đến lúc trông thấy cái xuồng, ông ta không thích bảo là xuồng nhỏ quá chỉ đủ vừa một người, ngồi hai người thì không chắc chắn. Tôi nói:
- Ông đừng sợ, ba người chúng cháu vẫn ngồi tốt mà.
- Sao lại ba người?
- Cháu, Sid và... và... súng nữa là ba.
- à ra thế
Ông ta đặt chân lên mạn xuồng, nhấn thử rồi lắc đầu bảo là để ông ấy phải tìm một cái xuồng to hơn, song xuồng nào cũng buộc dây xích và khóa cả. Thế là ông ta lại trèo ra khỏi xuồng của tôi, bảo tôi chờ ông ta quay lại.
Tôi bỗng nảy ra một ý nghĩ. Tôi tự bảo: nhỡ ông ta không chữa khỏi ngay được cái chân của Tom thì sao? Nhỡ phải chữa đến ba bốn ngày thì sao? Chúng tôi làm thế nào? Phải chờ đó đến khi ông ta chữa xong ư? Tôi biết làm gì bao giờ? Tôi sẽ chờ, lúc nào ông ta quay lại, nếu ông ta bảo không đi nữa thì tôi sẽ xuống đó, nếu cần thì bơi xuống, chúng tôi sẽ bắt giữ ông ta trói lại, rồi đưa xuống dưới kia, và sau khi chữa xong cho Tom rồi sẽ trả cho ông ta xứng đáng bằng tất cả những gì chúng tôi có. Sau sẽ để ông ta lên bờ.
Thế rồi tôi nằm ngả lưng vào đống củi gỗ gần đó để chớp mắt một lát. Đến lúc tỉnh dậy để thấy mặt trời lên đến đỉnh đầu. Tôi vùng dậy chạy ngay đến nhà bác sĩ thì họ bảo là bác sĩ đi từ đêm chưa về. Tôi nghĩ bụng thế này thì nguy cho Tom lắm. Tôi phải đi ra hòn đảo ngay. Tôi quay ra, đến chỗ rẽ ở góc đường thì đâm ngay đầu vào bụng chú Silas. Chú ấy hỏi:
- Ơ kìa Tom, cháu đi đâu từ lúc đó đến giờ?
- Cháu chẳng đi đâu cả, cháu và Sid đi đuổi tên da đen chạy trốn.
- Mày đi những đâu? Dì chúng mày đang sốt cả ruột lên kia kìa.
BẠN ĐANG ĐỌC
Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn
AventuraBạn đang đọc truyện Những Cuộc Phiêu Lưu Của Huckleberry Finn của tác giả Mark Twain trên trang đọc truyện online. Ernest Hemingway từng nói: "Toàn bộ văn học Mỹ hiện đại đều thoát thai từ một cuốn sách của Mark Twain, đó là Những cuộc phiêu lưu của...