Hồi thứ mười lăm: Điên dại

347 10 0
                                    

Tơ trúc réo rắt, du dương êm ái. Trong Lưu Ly cung, ca múa thanh bình.

Hy Hòa tựa người trên chiếc giường cẩm thạch kim tuyến, nhâm nhi chén rượu hai mươi năm được ướp lạnh, ánh mắt lười biếng.

Trên vũ trì có một thiếu niên áo đỏ nhảy cực đẹp, bầy yến yến oanh oanh xung quanh đều làm nền cho hắn.

Hy Hòa gỡ bông hoa bằng ngọc cài trên đầu xuống, ném cho thiếu niên, thiếu niên đảo người một cái trên không, bắt lấy, ánh mắt lấp lánh, nói: "Đa tạ phu nhân ban thưởng".

Hy Hòa nhìn hắn cười rạng rỡ không nói gì, góc mày khóe mắt có phần lẳng lơ. Nàng ta ngang nhiên liếc mắt đưa tình hoàn toàn không đếm xỉa đến sự tồn tại của người bên cạnh như thế, mà Chiêu Doãn kế bên cũng không nổi giận, thấy chén rượu của Hy Hòa rỗng không, còn rót đầy cho nàng ta.

Cứ vui vẻ như thế đến khoảng giờ Tuất, bỗng từ xa vọng lại tiếng bước chân gấp gáp, tên tiểu thái giám hớt hơ hớt hải chạy trên bậc thang dài, vừa chạy vừa kêu: "Hoàng thượng, không hay rồi! Hoàng thượng, không hay rồi...".

"Câm mồm! Đây là chốn nào mà dám la lối om sòm?". Đại thái giám đi cùng vội vàng chạy tới giáo huấn.

Tiểu thái giám ngã nhào xuống đất, khi nhỏm dậy mặt mũi đã nhòe nhoẹt nước mát: "Khởi bẩm hoàng thượng, Kỳ Úc hầu và đoàn đi sứ Trình quốc đã bị hoàng tử Di Phi của Trình Quốc ám toán phục kích ở Hồi thành, hầu gia trúng tên độc không thể chữa trị, đã bỏ mạng!".

"Ngươi nói cái gì?". Hy Hòa nhảy dựng lên, chiếc váy dài kéo lê khiến mỹ tửu sơn hào hải vị trên chiếc bàn thấp đều rơi loảng xoảng xuống đất.

Cùng với tiếng kêu sửng sốt của nàng ta, tiếng nhạc ngừng bặt, ca múa tạm dừng, trong đại điện im lặng như tờ.

Chiêu Doãn liếc mắt nhìn Hy Hòa một cái, thủng thẳng nói: "Nghe thấy chưa? Nói lại lần nữa."

Tiểu thái giám sụt sịt vừa khóc vừa nói: "Hoàng thượng, khi Kỳ Úc hầu đến Hồi thành thì bị tam hoàng tử của Trình quốc ám sát, thân trúng tên độc, không thể chữa trị, nên đã bỏ mạng! Nô tài Tiết Thái hiện đang ôm di thể của hầu gia đợi ngoài điện, xin được diện kiến hoàng thượng!".

Hy Hòa không kịp xỏ giầy lập tức xông ra ngoài, đôi chân trần giẫm lên những mảnh gốm vỡ, bị cứa rách chảy máu, nhưng dường như nàng ta không cảm thấy gì, cứ thế lao vút đi, mái tóc và chiếc váy tung bay giống như một ngọn lửa rực cháy.

... Tiết Thái đang quỳ ngoài cửa điện, thứ đầu tiên hắn nhìn thấy chính là cảnh tượng này.

Giây sau đó, ngọn lửa ấy xông đến trước mặt hắn, một tay tóm chặt cổ áo hắn giống như định nhấc bổng cả người hắn lên, thét lớn: "Cơ Anh đâu? Hắn ở đâu? Gọi hắn ra đây? Gọi hắn ra đây...".

Ánh mắt Tiết Thái nhìn mặt đất bên cạnh.

Hy Hòa hướng theo ánh mắt của Tiết Thái liền thấy một chiếc hòm. Nàng ta ngây ra một lát, sau đó đi đến bên cạnh chiếc hòm, dừng lại, nhìn chằm chằm vào chiếc hòm đó, vẻ mặt vừa sợ hãi vừa hoảng hốt vừa nghi hoặc lại vừa do dự, cuối cùng, nghiến chặt răng, đưa tay mở chiếc hòm ra. Gương mặt khiến nàng ta kiếm tìm cả trong giấc mộng, quen thuộc đến không thể quen thuộc hơn đó, bỗng gần ngay trước mắt.

Cơ Anh nhắm mắt, nét mặt hiền hòa, giống như đang say giấc.

Nhưng lại chỉ có một cái thủ cấp.

Hy Hòa sững sờ nhìn cái thủ cấp đó, lùi về phía sau một bước, hai bước, ba bước rồi ngã phịch xuống đất.

Bấy giờ, những người khác cũng lần lượt từ trong Lưu Ly cung bước ra, nhìn thấy chiếc hòm đó, không ai là không kinh hãi.

Duy chỉ Chiêu Doãn mặt không biểu cảm nhìn đầu Cơ Anh, cau mày một cái, lạnh lùng quát: "Nô tài to gan, ngươi dám xử lý thi thể của Cơ khanh như thế này sao?".

Tiết Thái dập đầu, cao giọng tấu: "Hồi bẩm hoàng thượng, trên mũi tên bắn trúng chủ nhân có chất kịch độc, ngoài phần đầu ra các bộ phận còn lại đều bị nát rữa rồi".

Chiêu Doãn há miệng, trong mát thoáng vẻ đau lòng, đang định nói điều gì thì một tràng cười vang lên tận tầng mây. Mọi người kinh ngạc quay đầu, hóa ra là Hy Hòa phu nhân đang cười.

"Phu nhân". Một cung nhân dè dặt thăm dò.

Hy Hòa ngồi trên mặt đất, ngửa đầu cười như điên như dại, mọi người không biết nàng ta cười gì, nên vừa nghi hoặc vừa sợ hãi.

Có một cung nữ bước lên phía trước, định dìu nàng ta đứng dậy, nhưng bị nàng ta cắn mạnh vào cánh tay, cung nữ kêu lên thảm thiết vừa bò vừa lăn tránh ra.

Hy Hòa cười tiếp: "Ha ha ha ha...".

Có người thì thào: "Phu nhân... hình như phu nhân có gì đó là lạ, đi tìm thái y đến khám xem sao?". Thấy Chiêu Doãn vẫn lạnh lùng đứng bên quan sát không tỏ thái độ gì, thì ai dám tự ý hành động, mọi người đành đứng phỗng ra đó.

Hy Hòa vừa cười vừa loạng choạng đứng dậy, chạy về Bảo Hoa cung.

Mọi người chỉ có cách chạy vào cung điện theo nàng ta.

Những kẻ nhảy múa trước đó vì không biết xảy ra chuyện gì mà lại chưa được cho phép rời đi, nên đành đứng chụm đầu chuyện trò ở giữa vũ trì, nhìn thấy Hy Hòa phu nhân quay về, vừa định thở phào thì thấy nàng ta xiêu xiêu vẹo vẹo chạy đến trước mặt thiếu niên áo đỏ. Thiếu niên áo đỏ vừa mừng vừa ngạc nhiên, nụ cười vừa nở trên môi, thì ngay lúc đó liền bị Hy Hòa đẩy mạnh vào tường.

"Phu, phu... nhân?".

Hai tay Hy Hòa bắt đầu thô bạo cởi quần áo của y.

Đám cung nhân ở bên thất sắc kinh hoảng, vội vàng xông lên ngăn lại: "Phu nhân, không được! Phu nhân, dừng tay đi, phu nhân định làm gì thế?".

Hy Hòa đều không để vào tai, giật mạnh chiếc áo đỏ của thiếu niên nọ, dán mắt nhìn vào đó một lúc lâu, còn thiếu niên bị lột lớp áo ngoài cũng đứng ngây ra đó, hoàn toàn không hiểu đang xảy ra chuyện gì.

Y nở nụ cười ngọt ngào, ngại ngùng hỏi: "Phu nhân... phu nhân sao thế?".

Hy Hòa lắc đầu một cái rồi lại bỏ chạy.

Hy Hòa chạy ra khỏi cung điện, chạy đến trước chiếc hòm nọ, mở chiếc áo bào trong tay ra, vừa quàng lên chiếc thủ cấp vừa nói:

"Không lạnh, không lạnh, Tiểu Hồng, không lạnh. Tiểu Hồng, Tiểu Hồng...".

Hai từ bình dị nhất thế gian phát ra từ miệng nàng lại dịu dàng lưu luyến vô cùng.

Tiết Thái choáng váng, nhớ lại hôm đó khi ở trên thuyền Cơ Anh từng nói với hắn: "Đối với ngươi luôn có một người không giống những người khác, vì thế, cũng sẽ dùng một cái tên khác để gọi ngươi... Tiểu Hồng, chính là cái tên đặc biệt đó của ta".

Tiểu Hồng...

Dù biết Cơ Anh có một tình nhân khắc cốt ghi tâm nhưng có duyên mà không có phận;

Dù biết người tình đó gọi Cơ Anh là Tiểu Hồng;

Mà sao lúc này khi tận tai nghe thấy, tận mắt nhìn thấy người tình đó của Cơ Anh, Tiết Thái lại cảm thấy bị sốc nặng như thế này, tay hắn rụt vào trong tay áo, chạm phải chiếc bàn chỉ mà Cơ Anh đưa cho lúc lâm chung, hắn cảm thấy chiếc bàn chỉ như đang thiêu đốt bàn tay mình, trong khoảnh khắc, toàn thân hắn nóng bừng lên.

Còn Hy Hòa chẳng thèm nhìn ai, chẳng thèm ngó ai, chỉ cầm chiếc áo đỏ quấn hết vòng này đến vòng khác, giọng như đang nói mơ: "Không lạnh, phải không? Tiểu Hồng, ta hát cho chàng nghe nhé, hễ ta hát là chàng không lạnh đâu".

Sau đó nàng ta bắt đầu cất tiếng hát.

Đây là lần đầu tiên Tiết Thái nghe thấy tiếng hát của Hy Hòa.

Đây là lần đầu tiên mọi người nghe thấy tiếng hát của Hy Hòa.

Thậm chí đây cũng là lần đầu tiên Chiêu Doãn nghe thấy tiếng hát của Hy Hòa.

Từ trước tới nay, Hy Hòa phu nhân chìm đắm trong nhung lụa vàng son, nhưng đều chỉ nghe người khác đàn ca diễn xướng, vì thế, cho dù mọi người biết nàng ta thích ca múa nhưng không ngờ hóa ra nàng ta cũng biết hát.

Nàng ta chăm chú nhìn thủ cấp của Cơ Anh, chuyên tâm hát, tiếng hát càng lúc càng réo rắt, giống như ngọn gió lướt qua sơn cốc đẩy muôn tầng sóng biếc; giống như vô số hạt mưa rơi tí tách trên hiên nhà biến thành những giọt châu bay lóng lánh; giống như làn sương dâng lên mênh mang trên mặt hồ dưới đêm trăng; giống như hạt cát bị gió thổi bay phiêu diêu khắp chốn.

Nàng ta hát còn hay còn đẹp hơn bất cứ loại nhạc cụ nào.

Nói cách khác, tiếng hát của nàng ta chính là loại nhạc cụ tuyệt diệu nhất thiên hạ.

Nàng ta hát rằng;

Trăng mọc chừ, nước mênh mang

Tựa ngọc chừ, tựa dáng chàng.

Tưởng tiên dạo chơi mây núi, dại dột giáng trần ai.

Suối chảy chừ, mưa lưa thưa,

Tựa lầu chừ, lắng nghe mưa.

Mơ hồ nhận ra khúc cố nhân, biết được vạn năm si mê.

Biển xanh đẫm lệ mấy ai hay?

Rả rích đêm ngày mưa chẳng ngớt.

Ngày xuân đương đẹp muôn hoa nở,

Sao nỡ úa tàn ai xót thay?

Cầu đến tiên nhân hái thược dược,

Tam sinh xin nối duyên kiếp này.

Hồng trần xa lắc trời đất rộng,

Xuân thu bất tận mãi vui vầy.

...

Nàng ta hát hết lần này đến lần khác, tiếng hát bay bổng trên cung điện, vương vấn mãi không tan.

Tiết Thái nhẩm lại câu "Cầu đến tiên nhân hái thược dược, tam sinh xin nối duyên kiếp này", trong phút chốc không kiềm được thoáng ngẩn ngơ. Nếu hắn không nhầm thì lời bài hát này là do Cơ Anh viết, Cơ Anh của năm đó rốt cuộc đã ôm một khối tình si đến nhường nào mới có thể viết ra khúc ca này, và đã dùng phương thức thân thiết đến nhường nào để dạy nó cho Hy Hòa, tình cảm chứa đựng trong đó, không cần nghĩ cũng có thể biết được.

Mọi người trong phút chốc hết thảy đều bị cảm động trước khúc ca tuyệt mỹ này, im lặng lắng nghe.

Duy chỉ Chiêu Doãn, nỗi căm hận dần dần dâng lên trong mắt, cuối cùng y bước lên phía trước nắm chặt tay Hy Hòa, quát: "Đủ rồi".

Hy Hòa giật tay lại, đẩy y thật mạnh, ôm lấy cả chiếc hòm đứng lên, lùi từng bước về phía sau, nói: "Không cho ngươi qua đây! Ngươi sẽ cướp áo của Tiểu Hồng, ngươi sẽ làm chàng lạnh chết, không cho ngươi qua đây!".

Chiêu Doãn sững ra một lúc, kế đó giận dữ quát: "Nàng đang nói linh tinh gì thế, mau đặt di cốt của Kỳ Úc hầu xuống!".

Hy Hòa ôm khư khư chiếc hòm trong lòng, tiếp tục lùi lại: "Đây là của ta, Tiểu Hồng là của ta, ngươi không thể cướp của ta!".

"Người đâu!". Chiêu Doãn liếc mắt, lập tức có mấy tên thị vệ xông lên đoạt lấy chiếc hòm, Hy Hòa giãy dụa điên cuồng, vừa cắn vừa xé, nhất quyết không buông tay, đám thị vệ cũng không dám động thủ với nàng ta, hai bên cứ giằng co như thế.

Chiêu Doãn tức đến mức nghẹt hở, mắng: "Các ngươi làm cái gì vậy? Mau bắt nàng cho trẫm!".

Đám thị vệ nói một tiếng "đắc tội" rồi hai tên xông lên tóm lấy cánh tay Hy Hòa, giữ nàng ta không cựa quậy nổi, một tên khác lại bẻ những ngón tay của nàng ra, chỉ nghe "rắc" một tiếng, xương ngón tay của Hy Hòa gãy lìa.

Mặt Chiêu Doãn biến sắc, y giậm chân nói: "Dừng tay! Dừng tay! Dừng tay cho trẫm. Các ngươi dám làm nàng bị thương! Đồ bỏ đi! Toàn một lũ bỏ đi!".

Đám thị vệ không dám đoạt chiếc hòm nữa, vì làm Hy Hòa bị thương nên hoàng thượng khiển trách, không tên nào dám động đậy.

Đang lúc bó tay hết cách, một giọng nói nhỏ nhẹ cất lên: "Hoàng thượng, để thần thiếp thử xem sao!".

Chiêu Doãn quay đầu nhìn thấy Khương Trầm Ngư.

Dưới ánh tịch dương còn le lói, Khương Trầm Ngư toàn thân áo lụa màu lam nhạt, mái tóc đen như mun chải ra phía sau, tuy sắc mặt có vẻ mệt mỏi, nhưng ánh mắt sáng rỡ, không nhuốm bụi trần tựa tiên giáng trần vậy.

Nàng quay về lúc nào? Sự nghi hoặc lóe lên trong đầu Chiêu Doãn, nhưng lập tức lại bị sư lo lắng thế chỗ, y gật đầu nói: "Được, nàng đến thử xem!".

Khương Trầm Ngư bước chầm chậm về phía Hy Hòa, nói với đám thị vệ: "Thả phu nhân ra".

Thị vệ lần lượt buông tay.

Hy Hòa vừa được thả là lập tức ôm chiếc hòm lùi về phía sau, cảnh giác nhìn chằm chằm Khương Trầm Ngư, vẻ mặt cực kỳ sợ sệt.

Khương Trầm Ngư mỉm cười, nhẹ nhàng cất tiếng hát: "Trăng mọc chừ, nước mênh mang. Tựa ngọc chừ, tựa dáng chàng...".

Bài nàng hát chính là khúc ca Hy Hòa vừa hát ban nãy.

Chính xác từng chữ một.

Giọng ca tuy không hay bằng Hy Hòa nhưng âm điệu rất chuẩn. Nếu nói tiếng hát của Hy Hòa có vẻ đẹp diễm tuyệt như mẫu đơn khuynh đảo thiên hạ thì tiếng hát của Khương Trầm Ngư lại có mùi hương thanh nhã của gỗ đàn hương dùng để chế tác bàn cờ đặt bên cạnh chén rượu mới nấu, dư âm văng vẳng kéo dài.

Hy Hòa trợn trừng đôi mắt mờ đục như sương mù, đứng im không nhúc nhích lắng nghe, vẻ cảnh giác phòng bị trên gương mặt dần dần nhạt đi.

Khương Trầm Ngư hát xong liền dừng lại tươi cười nhìn nàng ta: "Bài hát này đẹp quá. Đúng không?".

Hy Hòa ngây ngây dại dại nhìn nàng, không nói gì.

Khương Trầm Ngư tiến thêm một bước về phía nàng ta, giọng nói càng lúc càng mềm mỏng: "Tiểu Hồng buồn ngủ rồi, để chàng ngủ một giấc thật ngon, được không?".

Hy Hòa lại ngây ngây dại dại cúi đầu nhìn chiếc hòm trong tay, ánh mắt dán chặt lên mặt hòm, ngàn vạn nỗi đau đớn trong lòng thoáng cái đã biến thành hơi nước mịt mờ.

Cứ vậy Khương Trầm Ngư lại tiến thêm một bước nữa: "Tiểu Hồng có quần áo rồi, chàng không lạnh đâu, nhưng lúc này chàng đang rất buồn ngủ, rất buồn ngủ, chàng muốn đi ngủ. Đưa chàng cho ta, được không?".

Hy Hòa ngay tức khắc ngẩng đầu nhìn nàng cảnh giác. Khương Trầm Ngư xòe đôi bàn tay, thoải mái cười nói: "Yên tâm, ta không cướp của phu nhân đâu, chỉ để chàng ngủ một giấc yên lành thôi. Khi Tiểu Hồng ngủ, phu nhân có thể ngồi bên cạnh nhìn chàng, tiếp tục hát cho chàng nghe, được không?".

Hy Hòa nửa tin nửa ngờ đưa chiếc hòm cho nàng, đưa đến giữa chừng lại hối hận rụt tay lại, ôm chặt chiếc hòm vào lòng, lắc đầu nguầy nguậy.

Khương Trầm Ngư không nản lòng, tiếp tục mỉm cười, tiến sát lại gần hơn: "Thế này đi... ta dùng thứ khác để đổi cho phu nhân nhé?".

Hy Hòa vừa ôm chặt chiếc hòm, vừa hoang mang chớp chớp mắt nhìn nàng mấy cái. Cho dù vẫn bị người ngoài đàm tiếu là yêu cơ, nhưng kỳ thực đường nét của nàng ta không đẹp kiểu yêu mị, khoảnh khắc này không còn vẻ sắc sảo huênh hoang, ngông cuồng khinh bạc thường ngày nữa, mà chỉ còn lại vẻ ngây thơ, yếu đuối và rụt rè vốn có ở người thiếu nữ.

Khương Trầm Ngư nhìn Hy Hòa, trong lòng thấp thoáng mấy chữ:

Ai nhìn cũng thấy thương...

Nàng buồn bã cụp mi, cố gắng nén nỗi đau đớn chua xót không tên trong lòng lại, nhìn về phía Hy Hòa, nở một nụ cười:

"Ta dùng thứ này đổi với phu nhân, phu nhân đưa Tiểu Hồng cho ta, để họ đưa chàng đi ngủ, được không?". Vừa nói vừa ra hiệu cho Hoài Cẩn ở phía sau đem đồ tới.

Hoài Cẩn đặt tay nải trên vai xuống, nhẹ nhàng mở ra, bên trong là một chiếc áo bào trắng được gấp vô cùng ngay ngắn.

Trong tích tắc đôi mắt Hy Hòa sáng rực.

Khương Trầm Ngư đón lấy chiếc áo bào trắng từ tay Hoài Cẩn, chậm rãi bước đến trước mặt Hy Hòa, không nói thêm gì nữa chỉ bình tĩnh đưa chiếc áo bào trắng ra, sau đó nhìn thiên hạ đệ nhất mỹ nhân trong chớp mắt nét mặt trở nên rúm ró, bởi bao tình cảm chất chứa trong tâm khảm tích tụ lâu ngày đã lên tới đỉnh điểm, giờ đây ầm ầm sụp đổ.

"Cạch" một tiếng, chiếc hòm gỗ rơi xuống đất, Hy Hòa run rẩy túm chặt lấy chiếc áo bào trắng. Đám thị vệ nhanh như chớp lao qua nhặt lấy chiếc hòm, mang tới trước mặt Chiêu Doãn.

Chiêu Doãn liếc nhìn chiếc thủ cấp trong hòm một cái, ánh mắt đau đớn, vội quay mặt qua chỗ khác, trầm giọng nói: "Đem đi xử lý cẩn thận, chuẩn bị hậu táng".

"Vâng!". Hai tên thị vệ vội vàng hộ tống chiếc hòm rời đi.

Còn bên kia, Hy Hòa đang vùi mặt trong chiếc áo bào trắng, tham lam hít hà mùi hương trên chiếc áo, toàn thân co rúm lại, khóc thút thít.

Thấy nàng ta thất thố như thế, Chiêu Doãn vừa uất hận lại vừa thương xót, bất giác đi đến nói: "Đừng làm ồn nữa, mau đứng dậy cho trẫm...". Y vừa chạm vào vai Hy Hòa liền bị nàng ta cắn mạnh vào tay, rồi nàng ta vừa lăn vừa bò trên mặt đất để trốn tránh.

"Nàng!".

Thấy Chiêu Doãn sắp nổi giận, Khương Trầm Ngư vội dịu dàng gọi một tiếng: "Hoàng thượng...".

Chiêu Doãn hết nhìn nàng lại nhìn Hy Hòa trên mặt đất, ánh mắt lóe sáng, sau đó lại tối sầm, thở dài nói: "Thôi... mấy người đến đây, đỡ phu nhân về cung, không được để nàng ấy ngồi dưới đất".

Đám cung nhân ai nấy mặt mày khó coi. Bộ dạng Hy Hòa như thế, rành rành là từ chối bất cứ người nào lại gần, đến hoàng đế nàng ta còn cắn, huống hồ chỉ là bọn nô tài tép riu. Hơn nữa, hoàng thượng vẫn không nỡ làm tổn thương vị sủng phi này, bọn họ nhẹ chân nhẹ tay không được, nặng tay cũng không xong, biết phải làm sao đây?

Trong lúc đám đông âu sầu khổ não, không biết làm thế nào thì Khương Trầm Ngư bước lên nói: "Để ta thử xem".

Mọi người thầm thở phào nhẹ nhõm, thiện cảm đối với vị Thục phi này cũng vì thế mà tăng thêm mấy phần.

Khương Trầm Ngư bước đến trước mặt Hy Hòa, lặng lẽ chăm chú nhìn nàng ta một lúc, thấy cả người Hy Hòa đều đang run rẩy, rõ ràng là thực sự đau thương đến tột độ, trong lòng không khỏi thương xót, bi thương xen chút ngưỡng mộ, cuối cùng ngưng kết thành sự dịu dàng: "Phu nhân... không vá áo giúp Tiểu Hồng ư?".

Hy Hòa chấn động một lúc, ngây ngô ngẩng đầu lên.

Khương Trầm Ngư chỉ chỉ vào chiếc áo bào trắng: "Áo bị rách rồi kìa".

Lúc này dường như Hy Hòa mới phát hiện trên áo còn một lỗ thủng, ngây dại mở chiếc áo ra, nhìn lỗ hổng lớn bị gió lùa vào kêu phù phù, trong phút chốc nước mắt sa xuống, không nói câu gì, loạng choạng đứng dậy, cầm chiếc áo rồi quay về điện.

Nàng ta vừa vào điện, mọi người cũng lần lượt thở phào bước vào theo.

Khi Khương Trầm Ngư bước vào trong điện, thì đã thấy Hy Hòa cầm kim chỉ bắt đầu vá chiếc áo bào trắng, thần tình chăm chú mà bình tĩnh, ánh tà dương len qua cửa sổ đang mở ở bốn bức tường chiếu vào trong, chiếu lên người nàng ta, mái tóc đen nhánh cùng chiếc áo bào trắng tựa tuyết tôn lẫn nhau, hai sắc màu đối lập rõ ràng như thế, tạo thành một bức tranh cực kỳ trang nhã, in đậm trong tâm trí mỗi người.

Chiêu Doãn bỗng quay người, bước đi không nói một lời.

Khương Trầm Ngư im lặng bước theo.

Những thị vệ, thái giám khác cũng lần lượt theo sau, nhưng vẫn rất dè chừng giữ một khoảng cách nhỏ với hai người bọn họ.

Đi được một lúc, Khương Trầm Ngư phát hiện Chiêu Doãn không có ý định về ngự thư phòng mà đang đi loanh quanh không mục đích trong hoàng cung, hơn nữa càng đi lại càng đến nơi hẻo lánh, nhà cửa thưa thớt, cỏ cây um tùm, một nơi nàng chưa từng đến bao giờ.

Tiếp theo Khương Trầm Ngư phát hiện, đây vốn là điểm tận cùng của hồ Phượng Thê.

Hồ Phượng Thê là danh thắng nổi tiếng nhất của hoàng cung Bích quốc, mà cầu Động Đạt chính là tâm điểm của bức tranh ấy. Tiết Thái đã từng vung rọi ngựa làm kinh động xe ngựa của Hy Hòa phu nhân, hại nàng ta rơi xuống nước ở chỗ đó. Vì thế, từ trước tới nay, Khương Trầm Ngư cứ tưởng cầu Động Đạt là toàn bộ của hồ Phượng Thê, bây giờ nhìn thấy nơi đây mới hay, hóa ra điểm cuối của hồ lại tiêu điều như thế này.

Tuy là mùa hè nhưng cỏ cây vẫn thưa thớt, mọc lên lởm chởm nửa xanh nửa vàng, mấy gian nhà ngói xiêu vẹo ngả nghiêng đã mục nát đến quá nửa, cho thấy đã rất lâu rồi chưa có ai đến đây. Thỉnh thoảng vẳng tới tiếng "quạ quạ" của con quạ bay vụt qua trên những cành khô khiến cảnh sắc càng thê lương hoang tàn.

Khương Trầm Ngư hơi đăm chiêu nhìn Chiêu Doãn – Y cố tình hay vô ý đến chỗ này? Nếu nàng đoán không nhầm, nơi này... chính là chỗ ở của Chiêu Doãn lúc còn nhỏ.

Năm Gia Bình thứ mười một, Hành Xu đi qua đây, nghe thấy tiếng hát đẹp như tiếng nhạc trời của một người phụ nữ, nhất thời hứng khởi sủng hạnh người cung nữ làm trong phòng giặt là đó, sau đó thì quên ban danh phận cho nàng ta, chẳng ngờ người cung nữ ấy lại âm thầm mang thai rồng, mười tháng sau sinh hạ ra một hoàng tử.

Nhưng nàng ta địa vị thấp kém, lại bị Hành Xu quên lãng, vì thế trong suốt một thời gian dài không ai hỏi đến.

Mười năm sau, người cung nữ mắc bệnh qua đời, có người thông báo việc này lên cấp trên, bị La Hoành vô tình nhìn thấy bẩm lại với Hành Xu, lúc ấy họ mới biết đến sự tồn tại của vị hoàng tử này. Bấy giờ mới sai người đón Chiêu Doãn về cung. Nhưng vì từ nhỏ thiếu ăn thiếu mặc nên Chiêu Doãn chậm lớn, lại không biết chữ, so với các hoàng tử khác đúng là một trời một vực.

Chẳng ai ngờ đứa trẻ gầy gò thô lậu đó sau này lại trở này đế vương của một nước.

Cũng chẳng ai ngờ vị đế vương oai hùng này lại có xuất thân như thế... Còn thời khắc này Chiêu Doãn đang chăm chú nhìn hồ nửa đỏ nửa xanh dưới ánh tà dương, không vui không buồn, ánh mắt nặng nề, thần sắc bình tĩnh.

Gió mát nhè nhẹ thổi trên mặt hồ, mặt hồ gợn lên tầng tầng những con sóng lăn tăn, y đứng chắp tay sau lưng, ánh mặt trời phủ lên gò má y một lớp sáng màu vàng, nhìn lại càng không rõ nét.

Giấc mộng đế vương ngàn thu.

Từ cổ chí kim, biết bao người muốn làm hoàng đế. Nhưng có phải khi làm hoàng đế là thấy thỏa mãn, là thấy không còn hối tiếc không?

Chiêu Doãn, vị đế vương mới chỉ hai mươi tuổi này, năm mười ba tuổi đã cưới Tiết Minh, con gái của trưởng công chúa tiền triều, nhân đấy nhận được sự ủng hộ của Tiết gia, từ hoàng tử không được chú ý nhất lắc mình một cái đã trở thành đối thủ cạnh tranh mạnh nhất cho ngôi vị hoàng đế. Nhưng khi đó, thế lực của Tiết gia vẫn chưa đủ đối đầu với Vương thị, vì thế, năm mười bốn tuổi, y lại quỳ trước phủ Cơ gia, xin cưới Cơ Hốt làm phi, Cơ lão hầu gia mới ưng thuận hôn sự này. Từ đây, Cơ gia cũng trở thành thế lực hậu thuẫn mạnh mẽ cho y. Năm Gia Bình thứ hai mươi bảy, Bích vương Hành Xu lâm bệnh nguy kịch, vốn muốn truyền ngôi cho thái tử Thuyên, nhưng sau khi bàn mưu Chiêu Doãn, cùng Tiết Hoài, Cơ Anh đã phát động binh biến vào đêm mùng mười tháng mười, giết chết Chiêu Thuyên, ép Hành Xu lập Chiêu Doãn làm hoàng đế – đó chính là biến sự Song Thập. Năm sau Chiêu Doãn đăng cơ, đổi quốc hiệu Đồ Bích, tuyển trưởng nữ của Khương thị làm phi. Từ đây, dưới sự phò tá của ba đại thế gia Khương, Cơ, Tiết, y đã ngồi vững trên ngai vàng.

Đồ Bích năm thứ tư, y lại ép Tiết Hoài mưu phản, nhổ gốc trốc rễ cả gia tộc họ Tiết.

Có thể nói, cả đời của vị đế vương này, mỗi bước đi đều dứt khoát quả quyết. Y biết rất rõ mình muốn gì và không hề do dự khi thực thi.

Tiết gia như thế, Cơ gia... cũng như thế.

Tuy cái chết của Cơ Anh là phụ thân bày mưu tính kế, nhưng nếu như không có Chiêu Doãn cho phép, phụ thân đâu dám đi nước cờ mạo hiểm này. Giờ đây Chiêu Doãn lại có vẻ mặt tuy bình tĩnh nhưng bi thương không nói nên lời này, là vì cái gì?

Là thương tiếc cho cái chết đau đớn của Cơ Anh? Hay là xót thương cho sự điên dại của Hy Hòa?

Nếu nói y muốn trừ bỏ Tiết gia là vì Tiết Hoài công cao át chủ, đã uy hiếp đến hoàng quyền của y. Thì Cơ gia lại không như vậy, chí ít, tính đến bây giờ vẫn không. Tại sao y lại cho phép phụ thân thực hiện hành động điên cuồng lần này? Tại sao y muốn Cơ Anh chết?

Lẽ nào vì... thật sự là vì... Hy Hòa?

Màu mắt Khương Trầm Ngư sầm xuống, hai tay từ từ nắm chặt lại, một giọng nói từ đáy lòng đang xé toang làn sương mù dày đặc lạnh lẽo và kiên quyết vang lên: Không tin!

Nàng, Khương Trầm Ngư không tin, một nam nhân thủ đoạn độc ác trở mặt vô tình như thế lại có thể vì nữ sắc mà đánh mất lý trí như vậy, vì một người con gái mà hy sinh danh thần giỏi nhất của mình.

Hôn quân vì nữ sắc như thế có lẽ sẽ là Ngô vương Phù Sai, là Trụ vương Tử Tân, là U vương Cung Niết, nhưng tuyệt đối không thể là y – Bích vương Chiêu Doãn!

Nghĩ miên man đến đây, ánh mắt Khương Trầm Ngư từ nóng chuyển sang lạnh, nàng hơi cúi đầu nhìn xuống đất, ánh dương kéo dài chiếc bóng rồi từ từ tối đi.

Màn đêm đã buông xuống rồi.

Nhưng Chiêu Doãn vẫn bất động, không có ý định rời khỏi đây.

Một đám người đợi chờ, tất cả đều đứng cách cả trượng nín thở chờ đợi, không dám giục giã.

Khương Trầm Ngư nghĩ một lát mới lên tiếng nói: "Hoàng thượng, đêm lạnh rồi, về đi thôi".

Thân hình Chiêu Doãn hơi rung rung giống như bị giọng nói này thức tỉnh, y quay đầu lại, vẻ mặt kinh ngạc, nhưng chẳng qua cũng chỉ là biểu cảm trong nháy mắt mà thôi, rồi y lấy lại bình tĩnh ngay lập tức.

"Ừ". Y gật đầu, quay người đi trước.

Đèn hoa mới khêu bóng sáng mông lung. Rõ ràng cùng trong cung cấm, nhưng đoạn đường mà họ đã đi này cực kỳ thê lương lạnh lẽo, so với sự ấm áp, sự huyên náo ở các điện khác lại giống như hai thế giới đối lập nhau, tất cả những thứ đẹp đẽ đều không thể lọt tới đây.

Từ vị trí của Khương Trầm Ngư có thể nhìn thấy bóng lưng của Chiêu Doãn, chiếc áo mỏng khó che nổi sự gầy gò của y, ngẫm kỹ bỗng phát hiện ra một sự thực. Hình như Chiêu Doãn là người gầy nhất trong những nam tử mà nàng từng gặp... Trong lúc nàng thất thần, Chiêu Doãn bỗng cất tiếng hỏi: "Nàng về từ khi nào?".

Khương Trầm Ngư sững ra, vội đáp: "Vừa mới vào cổng cung đã được dẫn đến Bảo Hoa cung bái kiến bệ hạ rồi".

Chiêu Doãn "ồ" một tiếng, ngừng một lát rồi mới từ tốn nói: "Lần nầy xuất cung... cảm thấy thế nào?".

Trong đáy mắt Khương Trầm Ngư dấy lên vô và cảm xúc, rất lâu sau mới trả lời: "Thế giới rộng lớn, mà cung điện, đô thành, giang sơn của một nước... không thể sánh nổi".

Chiêu Doãn sững người, kinh ngạc quay đầu lại nhìn nàng, trong ánh mắt đầy sự dò xét: "Nghĩa là thế nò?".

Khương Trầm Ngư thận trọng lựa chọn từ ngữ: "Từ khi thần thiếp hiểu chuyện, được phu tử dạy dỗ, được cha mẹ chỉ bảo, chịu ảnh hưởng của những người xung quanh đến nay, thần thiếp luôn tưởng một khuê nữ biết nữ công gia chánh, giỏi nấu nướng, biết thơ văn, hiểu lễ nghĩa mới là một khuê nữ tốt. Vào hoàng cung thần thiếp lại thấy những thứ như nữ công gia chánh, nấu nướng, thơ văn, thậm chí những lễ tiết được học trước đây, đều là đồ bỏ đi cả. Bởi, chúng không thể khiến thần thiếp có được sự sủng ái của hoàng thượng, cũng không thể giúp thần thiếp trở thành một vương phi xuất sắc. Bởi vậy trong một thời gian dài, thần thiếp luôn tự vấn: Mình nên học những gì? Mình nên làm những gì? Mình tồn tại có ý nghĩa gì?".

Chiêu Doãn cười cười: "Nàng nghĩ thật là nhiều". Đây là biểu cảm vui vẻ đầu tiên mà y bộc lộ trong ngày hôm nay, vì thế, tuy lời nói mang ý khiển trách nhưng giọng điệu lại có chút chế nhạo mà thân mật.

Khương Trầm Ngư cũng cười theo, nói tiếp: "Nhưng lần xuất cung này, được đến những nơi chưa từng đến, được gặp đủ mọi loại người, có người sống rất vui vẻ thoải mái, có người không được như vậy, có người rất tích cực, có người tiêu cực... Tất cả giống như những mũi kim thêu, từng mũi từng mũi thêu dần dần tạo thành hình ảnh, tạo thành đáp án mà thần thiếp luôn kiếm tìm".

"Ồ, đáp án là gì?". Chiêu Doãn tỏ rõ hứng thú, ánh mắt sáng rỡ nhìn nàng.

Khương Trầm Ngư không vòng vo, đáp rất thẳng thắn: "Làm lợi cho người".

Lông mày của Chiêu Doãn nhướng lên.

"Cái gọi là làm lợi cho người, tức là có lợi đối với người khác. Nói dễ hiểu hơn chính là sự tồn tại của bản thân có ích với người khác".

"Nói tiếp đi".

"Hoàng thượng, theo người tại sao con hổ luôn sống đơn độc?".

Chiêu Doãn ngẫm nghĩ: "Hừm... vì nó mạnh mẽ?".

"Vậy tại sao loài người mạnh hơn loài hổ lại quần cư?".

Chiêu Doãn chưa trả lời, Khương Trầm Ngư đã lập tức đưa ra lời giải thích: "Bởi, loài người vì muốn bảo vệ cho nhau, yêu thương lẫn nhau nên đã ở cùng một chỗ, mới có thể sáng tạo ra chủng tộc đời đời tiếp nối, vạn cổ văn minh".

Chiêu Doãn ngẩn người nhìn nàng, không biết là vì chấn động hay là vì tán thành.

"Những năm cuối triều Tần tổng cộng có hơn 2000 vạn người, nhưng đến đầu thời Hán chỉ còn lại hai, ba nghìn hộ, thậm chí xuất hiện cảnh 'thiên tử không có xe bốn ngựa để đi, thừa tướng ngồi xe trâu, dân chúng không có cái ăn cái mặc'. Thời Tam Quốc, chiến sự liên miên, sau trận Xích Bích chỉ còn 90 vạn người. Thời Đường Vũ Tông, đất nước có 496 vạn hộ, nhưng đến thời Chu Thế Tông chỉ còn 120 vạn hộ... Có thể nói như thế này, mỗi lần chiến tranh sẽ khiến dân số giảm đột ngột lại dẫn đến nền kinh tế, văn minh của thời kỳ đó trở nên trống rỗng. Khi nhân loại không còn tương trợ lẫn nhau, khi nhân loại bắt đầu tàn sát lẫn nhau, xã hội không những ngừng tiến lên phía trước, mà thậm chí còn thụt lùi. Vì thế, là một phần tử trong dòng chảy lịch sử mênh mang, cho dù có nhỏ nhoi biết mấy, thần thiếp cũng nên có ích cho người khác, có ích với đời – Đây chính là đáp án mà thần thiếp kiếm tìm".

Chiêu Doãn trầm ngâm rất lâu, sau đó hít một hơi thật sâu, nói nhỏ: "Nàng... trưởng thành rồi. Trầm Ngư".

Nữ tử trước mắt đã không còn là cô thiếu nữ tóc búi lệch, tự mình dâng thư tiến cử trước mặt y thưở nào nữa, mà nói năng đĩnh đạc, toàn thân tỏa ra hào quang trí tuệ khiến người ta không dám coi thường. Khương Trầm Ngư khi đó có lẽ chỉ là to gan mà thôi, còn Khương Trầm Ngư của bây giờ lại có trí tuệ ở tầng cao hơn, nghiễm nhiên sánh ngang với Cơ Anh.

Nhớ đến Cơ Anh, lòng Chiêu Doãn lại nhói đau, y bỗng buột miệng: "Cơ Anh... hắn đi có nhanh không?".

Khương Trầm Ngư nhìn y chằm chằm, bất động một lúc.

Chiêu Doãn bị ánh mắt của nàng chiếu thẳng, bỗng cảm thấy gai người, vô thức nói: "Sao thế?".

Rèm mi của Khương Trầm Ngư run run một lát, rồi bằng một giọng điệu trấn tĩnh lạ thường mà lại có chút lạnh lùng, nàng nói: "Mặt của Kỳ Úc hầu, chẳng phải hoàng thượng đã nhìn thấy rồi sao?".

Chiêu Doãn kinh ngạc, câu thứ hai của Khương Trầm Ngư nối tiếp ngay sau đó: "Còn như vì sao ngài ấy phải ra đi, hoàng thượng và thần thiếp đều biết rõ nhất... phải không?".

Câu nói này hiển nhiên đã đâm trúng nỗi đau của Chiêu Doãn, cơn giận bùng lên trong đôi mắt của vị đế vương trẻ tuổi, khi y đang định khiển trách phi tử vô lễ thì lại kinh ngạc nhìn thấy hai hàng nước mắt trong suốt không một tiếng động, không chút sức sống trào ra khỏi đôi mắt, lăn dài trên gương mặt nàng. Rõ ràng Khương Trầm Ngư đang khóc, nhưng không phải đau thương, mà giống như thương xót.

Mà sự thương xót này lại bất ngờ làm tan biến cơn giận của Chiêu Doãn, khiến y cũng thấy thương xót.

Bởi y không thể khóc vì Cơ Anh, cho nên nhìn thấy Khương Trầm Ngư khóc, giống như nỗi bi thương của mình cũng được giải tỏa theo nước mắt của nàng; mà cũng vì y và nàng thực ra xuất phát từ hoàn cảnh giống nhau, nên càng có thể cảm nhận được giây phút này nàng có thể khóc trước mặt người khác là điều khó khăn xiết bao.

Ánh mắt Chiêu Doãn lóe sáng, từ từ đưa tay ra... Khương Trầm Ngư run run nắm lấy.

Tay hai người nhẹ nhàng nắm lấy nhau như thế.

Tay của Chiêu Doãn lạnh lẽo, không giống như tay của Cơ Anh – lúc nào cũng ấm áp, khiến người ta cảm nhận được một sức mạnh vững chãi và hiền hòa. Thế nhưng, đây lại là cánh tay cao quý nhất, quyền lực nhất thiên hạ Bích quốc ngày nay.

Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn ngón tay của mình và y đan vào nhau, ánh mắt sâu thăm thẳm, trào dâng những cảm xúc khó hiểu, khoảnh khắc sau, nàng ngẩng đầu, mỉm cười rạng rỡ với Chiêu Doãn.

Thế là Chiêu Doãn cũng cười, nắm tay nàng tiếp tục đi về phía trước.

Khương Trầm Ngư khẽ nói: "Hoàng thượng...".

"Hả?".

"Sư Tẩu chết rồi".

"Ừ". Đến lông mi cũng chẳng buồn động đậy, về tình hình của hai ám vệ, Chiêu Doãn đương nhiên đã biết từ lâu: Nghe nói tên xui xẻo vì bảo vệ Khương Trầm Ngư mà mất một cánh tay hai cái chân, sau khi hấp hối trên giường một tháng trời, cuối cùng đã chết trên đường về đế đô.

"Nàng còn cần ám vệ à? Vậy cấp cho nàng hai tên nữa".

Khương Trầm Ngư ngẩng đầu nói: "Hoàng thượng còn có thể cho thần thiếp xuất cung nữa không?".

Chiêu Doãn hỏi vặn lại: "Nàng muốn xuất cung sao?".

Khương Trầm Ngư không hề do dự trả lời: "Muốn".

Chiêu Doãn nhìn nàng, lại cười, giọng điệu có chút yêu chiều nói: "Cũng không chịu an phận nhỉ". Dừng một lát, lại tiếp: "Có điều đúng là không nên nhốt nàng. Hoàng cung này... thực sự quá nhỏ".

Khương Trầm Ngư lờ mờ nhận ra gì đó trong lời nói của y, không kìm được hỏi: "Hoàng thượng cũng muốn ra ngoài?".

Trong tích tắc ánh mắt Chiêu Doãn hơi sầm lại: "Không. Trẫm không đi".

Tuy sắc mặt y không vui, nhưng có thể cảm thấy y tức giận như vậy không phải là vì nàng đã hỏi điều không nên hỏi, mà dường như là vì câu hỏi không thể trả lời đó khiến y bực bội với chính mình.

Chiêu Doãn... hình như... chưa bao giờ ra khỏi hoàng cung thì phải?

Khi y dung túng cho nàng ra ngoài va chạm với mọi thứ, có phải là y đang gửi gắm vào nàng một phần khát vọng mà mình không thể thực hiện được hay không?

Nghĩ đến điểm này, trong lòng Khương Trầm Ngư giây phút ấy không biết có cảm giác gì.

"Ngày mai, hãy cùng trẫm thiết triều sáng đi". Chiêu Doãn bỗng nói.

Khương Trầm Ngư sững người, lập tức đáp: "Thưa vâng".

Cái gọi là "cùng" của Chiêu Doãn không phải cùng y xuất hiện, là quân sư cho hoàng đế, khi đế vương lên triều, nàng phải đứng trong phòng tối ở bên cạnh lắng nghe. Mà Hàn lâm bát trí đã chết cả trước đó, bây giờ chính là lúc chọn người mới. Chiêu Doãn nói như thế, rõ ràng ám chỉ nàng sẽ là một trong số đó.

Đây... có được coi là được công nhận không?

Khóe môi Khương Trầm Ngư nhếch lên một nụ cười chua chát, vốn là một chuyện đáng vui mừng, nhưng vì nguyên nhân dẫn đến việc nàng bước lên con đường làm mưu sĩ này đã tiêu vong, nên niềm vui ấy đã biến thành nỗi đau thương vô cùng.

Nhớ ban đầu, nghìn lần cứng cỏi, vạn phần chấp niệm, đều là vì người ấy.

Mà nay "muốn phép Ma Cô thay thương hải, một chén sương xuân lạnh giá này"[1]... nàng chợt nhớ đến một chuyện, liền vội buông tay Chiêu Doãn. Chiêu Doãn sửng sốt quay đầu lại thấy nàng rút một cuốn sổ nhỏ từ trong người ra, cung kính dâng lên: "Không thể hoàn thành nhiệm vụ hoàng thượng giao phó, xin hoàng thượng trách tội". Nói đoạn quỳ sụp xuống đất.

[1] Bài "Yết sơn" của Lý Thương Ẩn, Hoàng Giáp Tôn dịch. Ma cô là tiên nữ, tự xưng có thể làm cho biển xanh biến thành nương dâu trong thời gian ngắn, vì thế nhà thơ nhận định rằng biển xanh thuộc về Ma Cô, muốn hỏi xin mua cả biển xanh, tức là có thể chiếm trọn thời gian, không còn hận vì thời gian khiến mọi thứ đổi thay nữa, nhưng tiếc thay không thể, biển lớn đã biến thành chén nước sương lạnh giá của mùa xuân.

Chiêu Doãn cầm lấy cuốn sổ, mở ra nhìn lướt, nhíu mày nói: "Thuật luyện thép của Trình quốc... Nàng đang xin trẫm ban thưởng cho nàng sao?".

"Không thể hỏi cưới được công chúa, là thần thiếp thất trách...".

"Được rồi". Chiêu Doãn kéo nàng đứng dậy, đuôi mày khóe mắt đều tươi cười: "Ả Di Thù đó ai cũng có thể lấy làm chồng, chỉ giỏi cắm sừng người khác, sao trẫm nỡ chà đạp Giang ái khanh và Phan ái khanh".

Khương Trầm Ngư nghe y nhận xét Di Thù như vậy, biết rõ là chê bai, nhưng vẫn không nhịn được cười "phì" thành tiếng.

Cứ vừa đi vừa nói chuyện vừa cười như thế cho đến Dao Quang cung, Chiêu Doãn mới buông tay, nói: "Nàng đi đường xa chắc là mệt rồi, quay về nghỉ ngơi đi".

Khương Trầm Ngư khấu bái rồi quay người đi vào cổng cung. Vừa bước vào cổng liền chạm phải một đôi mắt âm u lạnh lẽo, giống như mắt loài sói vậy.

Khương Trầm Ngư sững ra một lát mới phản ứng lại: "Tỉ tỉ?".

Người đó chậm rãi bước ra, ánh đèn phía trước hành lang chiếu xuyên qua bóng cây loang lổ, rớt xuống khuôn mặt trắng bệch không chút huyết sắc, chiếu rõ ánh mắt của nàng ta đang tỏa ra oán hận – quả nhiên là Họa Nguyệt.

"Tỉ tỉ?". Khương Trầm Ngư nắm lấy tay nàng ta theo bản năng, nhưng bị nàng ta gạt phắt ra. Khương Họa Nguyệt chẳng thèm nói gì, chỉ lạnh lùng trừng mắt nhìn nàng... rồi rảo bước rời đi.

Bấy giờ, Ác Du mới từ trong nhà chạy ra, sắc mặt lo lắng, thấp giọng nói khẽ: "Đại tiểu thư đến đã chừng nửa tuần nhang rồi, đang định đi thì nhìn thấy...".

Khương Trầm Ngư tuyệt vọng nhắm mắt lại.

Tỉ tỉ nhất định là nghe nói mình hồi cung lại nghĩ tới tin đồn "Thục phi nhiễm bệnh, đưa đến Bích Thủy sơn trang tĩnh dưỡng" trước đây, lo lắng nàng chưa hồi phục, nên vội vàng muốn đến hỏi thăm. Chẳng ngờ lại bắt gặp cảnh hoàng thượng đích thân đưa nàng về cung, còn nắm tay trò chuyện cười nói suốt dọc đường... Cho nên, vốn từ lo lắng đã trở thành căm hận đố kỵ, mới lườm nàng bằng ánh mắt tràn ngập hận thù như thế.

Nhất thời, trái tim nàng nặng trĩu, ngàn cảm xúc khó nói thành lời, Ác Du lại nói thêm một câu càng khiến nàng khó mà bình tĩnh nổi: "Còn nữa tiểu thư... lão gia cũng đến rồi, đang đợi tiểu thư ở trong phòng".

Khương Trầm Ngư quay đầu nhìn bóng người cao gầy đang đứng phía trong cột cửa chạm khắc rồng phượng, thoáng thấy văn nhược giản dị, giống như một thư sinh trung niên bình thường, nhưng trên thế gian này, không có ai hiểu rõ người đó hơn nàng...

Người này mới là Dạ đế thực sự của Bích quốc.

Hữu tướng đương triều – Khương Trọng.

Phụ thân... của nàng.

Ve mùa thu kêu ra rả.

Ô cửa sổ bằng lụa màu xanh biếc đóng im ỉm, bên trong nhà buông rèm thật thấp, ánh nến trong chiếc đèn hình rồng cuộn bằng sứ trắng cháy sáng chiếu rõ đồng tử của Khương Trầm Ngư giống như một ngọn lửa sáng rực.

Nàng nhẹ nhàng nhấc chiếc chụp đèn, khêu nhẹ bấc đèn bằng cái khêu vàng cán dài, rồi lại đậy chụp đèn bằng thủy tinh lại, mặt nàng hơi cúi xuống, mang theo một chút lười biếng hờ hững, không để tâm.

Trong phòng im ắng đến khó tả.

Cho đến khi Hoài Cẩn bưng trà vào, mùi thanh mát của loại danh trà cực phẩm theo làn gió nhẹ bay tới cùng giọng nói ngọt ngào của Hoài Cẩn phá vỡ bầu không khí gượng gạo: "Lão gia, đây là trà cúc Đại Khê mang từ Trình quốc về, mời lão gia thưởng thức".

Khương Trọng cười nói: "Được". Nói đoạn nhấp một ngụm, thong thả bảo: "Mùi vị này thật khiến người ta nhớ mãi... Nhớ lần trước ta đến Trình quốc uống loại trà này, đã là chuyện của hơn mười năm trước rồi...".

Khương Trầm Ngư nhếch môi nói: "Phụ thân đại nhân muốn uống trà của Trình quốc, cũng chỉ cần nói một câu thôi. Lẽ nào vị cựu thành chủ Hồi thành thông quyền đạt biến, khi về kinh bái kiến ân sư, đến món lễ vật cũng không có hay sao?".

Khương Trọng bị nàng mỉa mai nhưng cũng không tức giận, chỉ cười nhạt: "Hắn có đem lễ vật đến hay không, chẳng phải con rõ nhất hay sao? Thiên hạ ngày nay, chẳng có thứ gì khiến ta thích thú hơn món lễ vật đó".

Bàn tay đang giữ chiếc khêu của Khương Trầm Ngư bỗng dừng giữa không trung, lòng bàn tay như đang bị đốt giữa đống lửa, cảm giác bỏng rát đến mức chiếc khêu cũng bị nung chảy.

Lễ vật mà phụ thân nói chính là Cơ Anh.

Họa quốc: Đồ BíchNơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ