Rối loạn nhân cách ám ảnh nghi thức được đặc trưng bởi một sự bận tâm lan tỏa về trật tự, chủ nghĩa hoàn hảo và sự kiểm soát (không có chỗ cho sự linh hoạt) mà cuối cùng làm chậm hoặc ngăn cản việc hoàn thành một nhiệm vụ. Chẩn đoán dựa theo tiêu chuẩn lâm sàng. Điều trị bằng liệu pháp tâm lý động, liệu pháp nhận thức hành vi, và SSRIs.
(Xem thêm .)
Bởi vì những bệnh nhân mắc rối loạn nhân cách ám ảnh nghi thức cần phải được kiểm soát, họ có khuynh hướng cô độc trong nỗ lực của họ và không tin tưởng vào sự giúp đỡ của người khác.
Khoảng 2 đến 8% dân số chung được ước tính mắc rối loạn nhân cách ám ảnh nghi thức; phổ biến ở nam giới hơn.
Các đặc điểm gia đình có tính xung động, giới hạn phạm vi cảm xúc, và chủ nghĩa hoàn hảo được cho là góp phần gây ra rối loạn này.
Bệnh lý đồng diễn có thể xuất hiện cùng. Bệnh nhân thường có (rối loạn trầm cảm điển hình hoặc loạn khí sắc) hoặc .
Triệu chứng và Dấu hiệu
Các triệu chứng của rối loạn nhân cách ám ảnh nghi thức có thể giảm xuống trong một năm, nhưng sự dai dẳng của bệnh trong thời gian dài vẫn chưa được nghiên cứu.
Ở bệnh nhân rối loạn nhân cách ám ảnh nghi thức, bận tâm về trật tự, chủ nghĩa hoàn hảo, và kiểm soát bản thân và các tình huống ảnh hưởng đến sự linh hoạt, tính hiệu quả và sự cởi mở. Sự cứng nhắc và bướng bỉnh trong hoạt động của họ, những bệnh nhân này nhấn mạnh rằng mọi thứ đều được thực hiện theo những cách cụ thể.
Để duy trì cảm giác kiểm soát, bệnh nhân tập trung vào các quy tắc, những chi tiết vụn vặt, thủ tục, lịch trình và danh sách. Kết quả là, điểm chính của một dự án hoặc hoạt động không đạt được. Những bệnh nhân này thường xuyên kiểm tra những sai lầm và chú ý một cách khác thường đến những chi tiết. Họ không tận dụng tốt thời gian của họ, thường để những nhiệm vụ quan trọng nhất đến phút cuối cùng. Sự bận tâm của họ với các chi tiết và đảm bảo rằng mọi thứ đều hoàn hảo có thể trì hoãn dai dẳng sự hoàn thành công việc. Họ không nhận thức được rằng hành vi của họ ảnh hưởng như thế nào đến đồng nghiệp của họ. Khi tập trung vào một nhiệm vụ, những bệnh nhân này có thể bỏ bê tất cả các khía cạnh khác trong cuộc sống của họ.
Vì những bệnh nhân này muốn mọi thứ được thực hiện theo cách cụ thể, họ gặp khó khăn khi giao nhiệm vụ và làm việc với người khác. Khi làm việc với người khác, họ có thể lập các danh sách chi tiết về cách nhiệm vụ phải được thực hiện và trở nên khó chịu nếu đồng nghiệp gợi ý một cách khác. Họ có thể từ chối sự trợ giúp ngay cả khi họ bị chậm trễ.
Bệnh nhân bị chứng rối loạn nhân cách ám ảnh nghi thức tận tụy quá mức cho công việc và năng suất; sự cống hiến của họ không phải có động lực từ sự cần thiết về tài chính. Kết quả là các hoạt động giải trí và các mối quan hệ của họ bị bỏ lỡ. Họ có thể nghĩ rằng họ không có thời gian để thư giãn hoặc đi chơi với bạn bè; họ có thể hoãn một kì nghỉ dài đến mức không có kỳ nghỉ nữa, hoặc họ có thể cảm thấy họ phải làm việc để họ không lãng phí thời gian. Thời gian dành cho bạn bè, khi nó xảy ra, có xu hướng được sắp xếp trong một hoạt động chính thức có tính tổ chức (ví dụ, một môn thể thao). Sở thích và các hoạt động giải trí được coi là những nhiệm vụ quan trọng đòi hỏi việc tổ chức và làm việc chăm chỉ để làm chủ; mục tiêu là sự hoàn hảo.