Một ngày kia, Hàm Xuyên Hầu đến chỗ tôi ngụ. Trong lúc cùng nhau trò chuyện, sắc mặt ông ta đổi khác, hai ba lần miệng muốn nói lại thôi. Tôi hoảng sợ nói rằng: "Quân hầu ngày ngày cùng tôi có thân mật, tình nghĩa trọn vẹn, có việc gì đều cho nhau biết, không giấu giếm gì. Hôm nay, Quân hầu ra chiều bối rối ngại ngùng, hoặc giả tôi có điều chi lỗi đạo mà chẳng nỡ nói ra chăng?".Quân hầu đáp: "Đâu có lẽ ấy! Tôi may được giao du cùng lão sư, thường giữ lễ đệ tử, đạo nghĩa không sứt mẻ. Chỉ vì nhà này là biệt thất của anh tôi, nhân có việc về quê anh tôi bỏ không cái dinh này, tôi mới mời lão sư ở tạm tại đó, cũng là tiện đường vào chầu. Nay lão sư vạn phần không chắc được hồi hương, bất nhật ắt được ban cấp binh dân, chừng ấy sẽ xin đất lập dinh cho tiện. Trong hơn một tháng nay,tôi còn được ở nhà; mặt trước cạnh hồ có một miếng đất bỏ không có thể ở được. Thường tôi muốn xây một cái nhà riêng, mời lão sư đến yên nghỉ; bấy giờ mới tìm anh tôi trở về nhà cũ. Chẳng ngờ tôi vâng mệnh làm giáo khảo cuộc thi bắn giữa các quân binh, công việc của tôi bề bộn, không lúc rảnh rang, cho nên chưa làm xong nhà. Hiện nay nhà ngoài chỗ tôi ở cũng khá rộng rãi, vậy xin lão sư đợi vài ba ngày nữa cái nhà bên hồ làm xong thì dọn đến ở. Bằng không, sang dinh quan An Quảng cũng được nhàn tĩnh. Chẳng biết ý tôn sư như thế nào?"
Tôi nghe vậy thì cười mà đáp: "Đại trượng phu cùng nhau gặp gỡ, sao lại câu nệ như thế. Việc này tôi sẽ lo xong, xin đừng bận tâm làm gì".
Ông ấy nghe nói vậy, dường như có vẻ vui mừng. Tôi thầm nghĩ: "Nhà ngoài của viên quan này, binh lính lai vãng tụ tập, không thể ở được. Còn dinh quan An Quảng, trong ngoài là nhà cửa cả đấy; nhưng dinh ấy bốn bề không tường vách, nơi ấy lại lắm trộm cướp, hẳn chẳng ở yên ổn. Mình mới được biết quan Hậu Trạch ở cạnh hồ, có vài ba ngôi nhà tiếp giáp với nhau, đất cao nước sạch, nên báo ngay cho ông ta chỉnh đốn riêng một sở, rồi dời ngụ đi mới được hẳn hoi".
Tôi biên thư cho Hàm Xuyên Hầu để cáo biệt; nghe đâu "hầu" thấy vậy thì trong lòng áy náy, phúc đáp thư tôi, kèm thêm một bài thơ gởi đến. Thư viết như sau :
"Đã từ lâu nghe đại danh như sét đánh bên tai, cứ hận không được biết họ Hàn. Tiên sinh ruổi xe vào cửa khuyết; tôi được trộm nghe lời giáo hối, tự biết là hân hạnh rất nhiều. Thường sớm tối muốn được thừa tiếp xuân phong, không phụ cuộc giải cấu vong niên này. Ngày trước tôi có dành riêng cái nhà tranh ở đây làm nơi "phượng" đậu, được tiên sinh chẳng bỏ qua mà dành trọn cáo ơn thắm thiết ấy. Hiện tại anh tôi trở lại kinh, tôi chẳng biết nói làm sao. Tiên sinh muốn lo dời gót, bản tâm tôi đâu có muốn thế mà lòng còn canh cánh chẳng nỡ xa nhau. Nếu ở dinh quan An Quảng rộng rãi trống trải không tiện thì nên dời đến tệ xá sảnh ngoài, cũng yên sở, chẳng cần phải đi xa xôi, qua bên kia cái hồ sen làm gì, khiến tôi bâng khuâng như bị mất mát gì đây. Đó là tình thật, tiên sinh nên nghĩ lại một chút. Có hai điều, xin chọn lấy một là nên tạm trú, sớm muộn tôi sẽ xây riêng biệt một ngôi nhà, tuần nhật sẽ làm xong, tiên sinh sẽ nằm thảnh thơi bên cửa sổ vậy. Nói chẳng hết lời, nên phải có thơ, ngõ hầu tả rõ cái chân tình mà thôi". Thơ rằng:
Thượng sơn sắc hạ nhạn trung chân
Đức thiệu niên tôn đạo bất bần
Cốt lận chân ngôn vô ẩn nhĩ
Định tri thạch thượng hữu tiền thân
Mã ngưu tương cập giai Hồng quận
Phì tích nan năng liệu biệt nhân
Kim nhật thử tình vô hạn hận
Nhất tràng tâm sự phó thiên quân
BẠN ĐANG ĐỌC
THƯỢNG KINH KÝ SỰ
Historical Fiction"Đây là một thiên phóng sự duy nhất của văn học Việt xưa viết về người thật, việc thật với cách hành văn giản dị, tinh tế và sinh động" (nhà văn Đoàn Minh Tuấn)