Chú thích chương I

1.2K 22 0
                                    

(1) Hồ Tông Thốc: người huyện Thổ Thành, nay là xã Thọ Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An; trú quán tại xã Vô Ngại, huyện Đường Hào nay thuộc tỉnh Hải Dương. Đời Trần Nghệ Tông (1370-1372) đi sứ nhà Nguyên, làm quan đến chức Hàn lâm học sĩ Thẩm hình viện sự, có tác phẩm Việt sử cương mục và Việt Nam thế chí, Thảo nhàn hiệu tần thi tập, nhưng hiện chỉ còn một bài thơ.

(2) Non nước trăm hai: nhà Tần đóng đô ở Quan Trung, địa thế hiểm yếu, hai người ở trong có thể chống với 100 người ở ngoài.

(3) Nói việc Hạng Vũ đốt cung A Phòng của nhà Tần.

Hàm Cốc: cửa quan hiểm yếu của nhà Tần.

(4) Tiệc ở Hồng Môn, Phạm Tăng định giết Bái Công nhưng Hạng Vũ không nghe. Bái Công thoát về được, Tăng tức giận ném vỡ tan cái đấu ngọc Trương Lương (Hán) biếu. ý câu thơ: đấu ngọc vỡ vụn như tuyết, không còn gì nữa.

(5) Hạng Vũ bị vây ở Cái Hạ, đêm phá vòng vây chạy được đến Âm Lăng, hỏi đường, bị một ông lão nông ghét Sở lừa chỉ đi về phía tả; Vũ nghe theo bị mắc cái đầm lớn không còn đường chạy nữa. Vũ than là "Trời định làm mất ta".

(6) Hạng Vũ chạy đến Ô Giang người lái đò khuyên qua sông sang Giang Đông rồi sẽ tính kế quay về, nhưng Vũ không nghe, tự tử.

(7) Lỗ Công: tước Hạng Vũ được Hoài vương phong từ trước. Khi Vũ thua chết, Hán Cao Tổ lấy lễ công mà chôn cất.

(8) Vạn Thặng: ngôi thiên từ có muôn cỗ xe.

(9) Điền Hoành: họ Điền vốn là họ của Tề Vương, người nước Tần. Khi nước Tề bị diệt, Hoành tự lập làm Tề vương. Khi Hán diệt Hạng Vũ, Hoành đem thuộc hạ chạy ra hải đảo. Hán Cao Tổ sai sứ ra mời hứa phong tước vương, chí ít cũng là tước hầu; còn nếu không theo sẽ đánh. Hoành định theo, nhưng khi gần về đến Lạc Dương lại đổi ý, tự sát. Thuộc hạ đều chết theo.

(10) Hạng Vũ từng phong cho Bái công tước vương ở Ba Thục và Hán Trung.

(11) Con hươu: ví với thiên hạ. Nhà Tần sổ mất con hươu: nhà Tần bị mất thiên hạ.

(12) Chương Hàm: tướng nhà Tần. Hạng Vũ và Hạng Lương đánh quân Chương Hàm ở Đông A hạ, đuổi đến Bộc Dương thì hoàn toàn phá tan.

(13) Tổ Long: miếu thờ Tần Thủy Hoàng. Sứ giả Tần đêm đi qua Hoa Âm, có người ngăn lại bảo "Năm nay Tổ Long chết". Tổ Long chỉ Tần Thủy Hoàng, vì Long (rồng) là hình tượng của vua (Hoàng); Tổ là người mở đầu, ứng với chữ Thủy.

(14) Kẻ thổi kèn dệt chiếu: chỉ Giáng hầu Chu Bột. Ông vốn người đất Quyển, sau dời sang đất Bái, thuở hàn vi thường phải dệt rèm trúc, thổi kèn đám ma kiếm sống.

(15) Người cất vạc nhổ núi: chỉ Hạng Vũ. Hạng Lương khiến Hạng Vũ chiêu tập bọn Vu Anh ở Đồ Sơn. Anh nói: "Trong miếu Vũ vương có 3 chiếc vạc đá, nếu xô đổ rồi nhấc bổng lên được thì ta sẽ hàng." Vũ bèn xô đổ rồi lại dựng lên, sau đó cho một tay vào trong vạc nhấc lên đi vòng trước cửa miếu ba lần, bọn Vu Anh đều bái phục. Chữ nhổ núi (bạt sơn), xuất phát từ bài ca tuyệt mệnh của Hạng Vũ: Lực bạt sơn hề khí cái thế (sức có thể nhổ núi, khí trùm trời đất).

(16) Hoài Âm tức Hoài Âm hầu, tước phong của Hàn Tín, tướng giỏi của Lưu Bang. Chung Ly: có lẽ là tướng của Hạng Vũ, chưa rõ điển tích.

(17) á Phụ: tức Phạm Tăng, mưu sĩ giỏi của Hạng Vũ.

(18) Nhụ Tử: có lẽ chỉ Trần Bình, người phụ tá có nhiều mưu lược của Hán Cao Tổ.

(19) Phong Bái, Bành Thành: Phong Bái: chỉ quê hương Hán Cao Tổ, vì ông người ấp Phong, huyện Bái; Bành Thành: đất của Tần. Hạng Vũ diệt Tần, đóng đô ở đấy.

(20) Vương ế: Hạng Vũ bị thua ở Ô Giang, Vũ ngoái nhìn người kỵ binh Hán là Lã Mã Đồng hỏi: "Anh có phải là bạn cũ của ta không?"

Mã Đồng nhận diện rồi chỉ cho Vương ế: "Đây là Hạng vương". Vũ lại hỏi: "Ta nghe nói Hán vương treo giá đầu ta ngàn vàng và tước vạn hộ. Ta cho ngươi đấy!" Nói rồi tự vẫn. Vương ế liền cắt đầu Hạng Vũ nộp cho vua.

(21) Sở ca bốn mặt lệ tràn lan: Hạng Vũ đến Cai Hạ, binh thiếu, lương hết, không đánh thắng được quân Hán lại bị vây bốn mặt. Trương Lương dạy quân Hán hát tiếng nước Sở đêm đến cất tiếng ca. Hạng Vũ nghe thấy bốn bề đều hát những bài ca nước Sở, thất kinh nói: "Hán đã lấy được Sở rồi sao? Sao người Sở đông như vậy?" Rồi đang đêm dậy uống rượu trong trướng, khóc ròng, thuộc hạ đều khóc, không ai ngẩng lên được, quân tướng đều tan rã.

(22) Hai câu này trích trong bài thơ của Vương An Thạch, Tể tướng thời Tống Thần Tông.

(23) Đỗ Mục (803-853), một nhà thơ có tên tuổi thời Văn Đường; hai câu này trích trong bài Đề Ô Giang đình.

(24) Mệnh ở trời: vua Trụ nhà Thương bạo ngược, trung thần khuyên can thì nói "đã có mệnh trời".

(25) Tân Mãng: Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, đổi quốc hiệu là Tân nên gọi là Tân Mãng. Hán Quang Vũ khởi binh đánh, Mãng nói: "Trời đã sinh đức ở ta, quân Hán làm gì được ta?"

(26) Chém Tống Nghĩa...: Sở Hoài Vương phong Tống nghĩa làm Thượng tướng, hiệu Khanh tử Quán quân, sai đem quân đánh Tần cứu Triệu. Tống Nghĩa trùng trình không tiến quân, Hạng Vũ liền vào trướng chém chết.

(27) Hạng Vũ đem quân đánh Hàm Dương, Tần vương là Tử Anh đã hàng, vẫn bị giết.

(28) Hàn Sinh bị luộc: Hàn Sinh khuyên Hạng Vũ nên đóng đô ở Quan Trung vì thế đất hiểm trở, phì nhiêu, có thể là nơi dựng nghiệp bá được. Vũ thấy cung thất nhà Tần đã bị đốt sạch, có ý muốn trở về Đông liền bảo: "Phú quý mà không trở về cố hương thì như mặc áo gấm đi đêm còn ai biết đến nữa". Hàn Sinh tức lui về nói: "Thế gian nói "người Sở là con khỉ đội mũ" quả như vậy". Chuyện đến tai Vũ, biết Hàn Sinh nói mình, Vũ giận sai giết chết bỏ luộc.

(29) A Phòng... bị thiêu: A Phòng là một dãy cung điện rất lớn liên tiếp nhau đến 300 dặm, cứ 5 bộ có một lầu, 10 bộ có một gác, lại dẫn nước hai con sông lớn vào đến chân tường bao cung điện. Sau bị Hạng Vũ đốt, hiện còn di chỉ ở huyện Tân An, tỉnh Thiểm Tây.

(30) Cái họa Trường Bình: Liêm Pha đóng quân ở Trường Bình, cố thủ không ra đánh. Triệu vương cho Triệu Quát đến thay. Quát đổi luật lệnh, dùng người dễ dãi, mở cửa thành đánh Tần, trúng kế kỳ binh của Vũ Anh Quân bị đại bại. Hơn 40 vạn quân Triệu đều hàng Tần, bị Vũ Anh Quân lừa giết chết hết.

(31) Hạng Vũ giết vua Nghĩa đế nước Sở, Hán vương theo mưu kế của Đổng công cho ba quân để tang, gợi lòng trung nghĩa của họ và kích động hào kiệt trong thiên hạ.

(32) Khúc Phụ: quê hương Khổng Tử.

(33) Cữu: Tào Cữu, Đại Tư mã nước Sở. Hạng vương sai Cữu giữ thành Cao, dặn cố thủ không được đánh. Quân Hán khiêu chiến mấy lần không được liền dùng kế nhục mạ Cữu suốt mấy ngày. Cữu nổi giận đem quân vượt sông Tỵ thủy mà đánh. Quân lính mới sang được nửa sông thì bị đánh bại, vật báu của nước Sở đều bị lấy hết; Cữu và Tư Mã Hân đều tự tử chết.

(34) Truyện: chỉ sách Luận ngữ. Câu này trích trong thiên Tử Hãn.

(35) Ung Sỉ: trước theo Hán Cao Tổ được sai giữ đất Phong. Khi Phong bị Ngụy chiếm, Sỉ hàng Ngụy, Hán Cao Tổ không có đường về phải dời sang đất Bái.

(36) Trần Hy: Hán Cao Tổ phong Trần Hy làm Tướng quốc coi quân biên. Sau Trần Hy cùng Vương Hoàng làm phản, tự lập làm vương, cướp phá Triệu, Đại.

(37) Hạng Vũ cùng đường ở Cai Hạ, vợ là Ngu Cơ tự tử để chồng khỏi vướng víu bịn rịn. Tục truyền trên mộ nàng mọc lên một thứ cỏ thơm gọi là cỏ "Ngu mỹ nhân".

(38) Lã Trĩ là hoàng hậu của Hán Cao Tổ (cũng gọi là Lã Hậu), khi còn ở trong quân Hạng vương làm con tin cùng Thẩm Tự Kỳ vốn đã thích nhau, sau Lã Hậu ở góa, nhớ tình xưa nghĩa cũ liền tư thông. Sợ người trong cung biết, Lã Hậu bèn giấu Thẩm sau giá treo áo.

(39) Thích Cơ là vợ lẽ yêu của Hán Cao Tổ. Sau khi vua chết nàng bị Lã Hậu chặt cụt chân tay, khoét mắt chọc tai vứt vào chuồng lợn gọi là lợn người.

(40) Hạng vương bắt cha Lưu Bang là Thái công dọa làm thịt. Lưu bang nói: "Cha ta cũng là cha mày, có làm thịt xin cho bát nước canh".

Triệu Vương Như ý là hoàng tử do người thiếp yêu Thích Cơ sinh, vì vậy Hán Cao Tổ đã định phế truất ngôi Thái tử của con cả để lập Triệu Vương.

(41) Làm cỏ Dĩnh Xuyên: Chỉ việc Hán Cao Tổ tru di ba họ Bành Việt và nhiều bề tôi khác. Bành Việt là người có công giúp Hán diệt Sở, thống nhất thiên hạ.  

Truyền Kì Mạn LụcNơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ