Chương 12: Trần Huyền Trang làm chay thỉnh Phật. Quan Thế Âm dạy sãi cầu kinh

274 4 0
                                    

  Những thế nữ tấy ngự muội đang ngoạn kiểng vùng té xuống chết tươi, thất kinh chạy vào mà báo cùng Hoàng Hậu.

Hoàng Hậu kinh hải vào thuật cho vua nghe.

Vua Thái Tôn gật đầu mà than rằng:

- Chết thiệt rồi đó chớ không phải gió máy chi đâu, trong khi trẫm kiếu mười vua mà về, có hỏi thăm gia quyến thể nào?

Mười vua rằng:

- Ai nấy bình yên hết, sợ một mình ngự muội số chẳng bao lâu, thiệt quả như vậy.

Nói rồi cùng nhau than khóc kéo đến mà xem, thấy Ngọc Anh còn hơi thở như sợi chỉ, Thái Tôn bảo Hoàng Hậu và cung nga đừng khóc, e Ngự muội giựt mình, liền bước lại đỡ đầu Ngọc Anh mà kêu rằng:

- Ngự muội ơi! Ngự muội ơi! Tỉnh dậy, tỉnh dậy.

Ngọc Anh cựa mình mà kêu rằng:

- Mình khoan đi đợi tôi với! Ðợi tôi với!

Vua Thái Tôn nói:

- Ngự muội, trẫm đợi nãy giờ đây.

Ngọc Anh mở mắt mà cự rằng:

- Ai níu tôi vậy?

Vua Thái Tôn nói:

- Hoàng huynh, Hoàng tẩu chớ ai.

Ngọc Anh nói:

- Tôi phải là em vua ở đâu mà có Hoàng huynh, Hoàng tẩu?

Tôi họ Lý tên Túy Liên, vợ Lưu Toàn là dân ở Quảng Châu. Bởi vì tôi bố thí cho thầy sãi một cây trâm, chồng tôi mắng hoài, tôi tức mình mà tự ái. Nay Hoàng Ðế sai chồng tôi dâng dưa dưới Âm phủ. Vua Diêm vương thương hại, cho vợ chồng tôi trở về, chồng tôi đi mau tôi chạy theo không kịp, tôi rủi chân vấp té, sao các ngươi không biết phép, dám lại kêu tôi kia?

Vua Thái Tôn nói với cung nga rằng:

- Thấy ngự muội bị té hết hồn, nên mới nói sảng.

Truyền thế nữ đỡ vào cung điện, ngự y điều trị thuốc than.

Rồi vua vào lâm triều có quan vào cửa tâu rằng:

- Người dâng dưa là Lưu Toàn đà sống dậy rồi, còn đứng hầu ngoài nhõ.

Vua Thái Tôn thất kinh, truyền đòi vào ra mắt, hỏi thăm công việc dâng dưa.

Lưu Toàn tâu rằng:

- Tôi đội dưa xuống Âm phủ, gặp qủy sứ dẫn tôi đến Diêm vương, mười vua có gởi lời cám ơn, và khen Bệ Hạ không thất tín; lại hỏi tên họ, tôi tâu thiệt và thuật chuyện vợ tôi thác oan, nên tôi tình nguyện dâng vua xuống Âm phủ họa may gặp vợ.

Vua Diêm vương sai qủy dắt hồn vợ tôi vào, lại tra bộ mà nói rằng:

- Số vợ chồng tôi sau đặng theo tiên nên cho quỷ đưa hai đưa tôi về dương thế, tôi đi trước vợ tôi đi sau, tôi sống lại đây, còn vợ tôi nhập vào đâu không biết.

Vua Thái Tôn phán hỏi:

- Vua Diêm vương có nói vợ ngươi làm sao không?

Lưu Toàn nói rằng:

- Vua Diêm vương không nói vợ tôi làm sao, đều tôi nghe quỷ sứ nói Lý Túy Liên chết đã lâu, thây thì rã hết. Vua Diêm vương nói Ðường ngự muội là người gì? Cũng không biết nhà cửa ở đâu mà kiếm!

Vua Thái Tôn nghe tâu thiệt thà, trong lòng mừng lắm, phán với các quan rằng:

- Khi trẫm huờn hồn, vua Diêm vương có nói với trẫm: " Số ngự muội chẳng dài. Khi ngự muội té chết giấc tại vườn hoa, Trẫm lại đỡ đầu mà kêu, ngự muội tỉnh lần cũng nói như Lưu Toàn một cách".

Ngụy Trưng nói:

- Sự thay hồn đổi xác nghe cũng có người, xin mời Quốc muội ra đây coi thử nói chi cho biết.

Vua Thái Tôn phán rằng:

- Trẫm mới sai Ngư y đem thuốc, bây giờ không biết ra thể nào?

Nói rồi sai hoạn quan vào cung, mời ngự muội ra mắt.

Bây giờ nói về Ngọc Anh, thấy Ngự y đem thuốc mời uống.

Ngọc Anh nói:

- Ai đâu mà uống thuốc kia?

Day lại cự với Cung nga thể nữ rằng:

- Nhà người ta khoản khoát mát mẻ có đâu mà phòng vàng ngoách như huỳnh đảng. Cửa có rằn như sắc chồn bông, tôi biểu buông ra, đừng có níu nữa đa!

Xảy thấy cung nga và thái giám (hoạn) hơn bốn, năm người áp lại dắt vào bệ ngọc. Vua Thái Tôn hỏi rằng:

- Ngươi biết mặt chồng không?

Nói:

- Hỏi cái gì lạ vậy? Vợ chồng tôi hồi con trai con gái ở với nhau mấy mặt con, làm sao mà không biết mặt kìa.

Vua Thái Tôn truyền hoạn quan, dắt xuống sân chầu.

Ngọc Anh thấy Lưu Toàn, chạy lại níu chồng mà trách rằng:

- Tía nó đi ngõ nào vậy, mà chẳng đợi tôi. Báo hại tôi chạy theo, vấp té nhào đầu nhào óc, bị mấy người làm ngang bắt lại, không thả tôi ra. Không biết họ làm cái gì vậy hả?

Lưu Toàn nghe tiếng nói giống vợ. Ngặt lạ mặt nên chẳng dám nhìn.

Vua Thái Tôn cười mà rằng:

Chác đất lỡ non người có thấy,

Thay hồn đổi xác thể không nghe.

Như vậy, thì chắc là vợ ngươi mà xác em Trẫm. Tuy ngự muội thác mà thân thể hỡi còn. Bởi nguời có công khó dâng dưa, mới đặng duyên lành đó! Thôi, những gia tài của ngự muội, Trẫm cho người chở về nhà, cũng như Trẫm gả em cho đó, và nhiêu sưu thuế, hai vợ chồng về xứ cùng nhau.

Lưu toàn và Ngọc Anh đồng lạy tạ, cùng nhau mừng rỡ ra về.

Ðến thành Quảng Châu, thấy nhà cửa như xưa, hai con mạnh giỏi.

Từ ấy vợ chồng giàu có lớn, bố thí cho kẻ nghèo. Hưởng phước thanh nhàn, muôn dân đều mến đức.

Bây giờ nói về Tướng Lương ở phủ Khai Phong, vợ là Trương Thị chuyên nghề đổi nước và bán chậu bán lu. Liệu bề đủ ăn xài, dư tiền bạc bao nhiêu cũng bố thí. Và hay mua giấy tiền vàng bạc để đốt hoài. Nên có tiếng đồn nghèo thứ nhứt và hiền lành cũng thứ nhất. Dè sau là ông bá hộ chứa bạc chứa vàng.

Khi Uất Trì Cung đến phủ Khai Phong hỏi ra tên họ, mới chở chuyên vàng bạc tới nhà. Lại thêm ngựa xe quan sở tại tới nữa. Tuy lều trah trại lá mà đông quá dinh quan.

Hai ông bà thất kinh như câm như dại, quỳ dưới đất mà lạy ngay.

Uất Trì Cung nói:

- Hai ông bà chờ dậy, ta tuy là Khâm Sai mặc lòng, chớ ông có tội chi mà sợ. Tôi vâng lệnh Thiên tử, đem bạc trả cho ông đây.

Tướng Lương run lập cập đáp rằng:

- Tôi có cho vay cho mượn ở đâu mà dám lãnh tiền bạc vàng vòng vô cớ?

Uất Trì Cung nói:

- Ta có hỏi thăm rõ là hai ông bà khó. Song có lòng lành bố thí, nên dưới Âm phủ có cất thế bạc vàng cho. Bởi Thiên tử sống dậy nói: "Có mượn kho vàng bạc của Tướng Lương dưới Âm phủ, có Thôi Phán quan bảo cử rõ ràng. Nên nay tính đủ mà trả cho, sao so cũng phải lãnh đi đặng ta về tâu lại".

Hai vợ chồng lạy mãi mà nói rằng:

- Nếu tôi lãnh của này thì tôi mau chết. Tuy tôi có đốt giấy tiền vàng bạc, ấy là U Minh, Bệ Hạ nói mượn duới Âm phủ thì sự quả quyết rồi, ngặt tôi không lấy tích chi làm cớ, giết thì tôi chịu chết, chớ tôi dám lãnh ở đâu.

Uất Trì Cung không biết làm sao, phải về cụ sớ cho vua rõ.

Vua Thái Tô xem sớ khen rằng:

- Thiệt là kẻ hiền lành.

Nói rồi tuyền cho Uất Trì Cung đem bạc ấy mà lập một kiểng chùa cho hai ông bà nhờ phước, trong chùa dọn hai bàn thờ sống, cũng như trả bạc kia.

Uất Trì Cung vâng lệnh, mua năm mươi mẫu đất mướn thợ cất chùa, gọi là chùa Tướng quốc. Bên tả lên cốt Tướng công (Tướng Lương) mày đậm mắt to như tạc. Bên hữu lên cốt Trương Thị, da đen áo rách, như thường. Chùa cao không biết mấy tầng li vòng lên trên khu ốc. Có dựng bia đá có khắc chữ là Uất Trì Cung coi làm, hoàn thành về tấu cho vua hay.

Vua Thái Tôn mừng phán rằng:

- Các quan vâng lệnh Trẫm, treo bản thỉnh thầy chùa đặng làm chay cho cô hồn siêu rỗi.

Các nơi lựa thầy chùa dâng tới đông lắm.

Vua Thái Tôn truyền cho quan Thái Sư Phó Duyệt (Duợt) chọn một thầy xứng đáng làm thầy cả mà đứng đàng chay.

Phó Duyệt dâng sớ can rằng:

- Phép của nước Tây vức không biết tôi chúa cha con. Bầy ra sáu đàng luân hồi, ba điều hành tội là: Ðao nuớc lửa đặng hoài dụ người ngu nhắc tội kiếp xưa, hưởng phước đời khác. Miệng đọc lảnh liếu, cho khỏi thế khỏi xâu. Huống chi sống lâu thác yểu là lẽ tự nhiên, nhân đức hành hình tại nơi vua chúa. Nay kẻ tục nói rằng: Phật định, lầm biết chừng nào? Huống chi đời tam hoàng ngũ đế, đạo Phật chưa truyền, thì vua sáng tôi ngay trị nước lâu dài lắm. Kể từ vua Minh đế nhà Hán mới có Phật ra đời, vua Minh đế lạp chùa mà không thấy phước. Bệ Hạ còn noi dấu làm chi?

Vua Thái Tôn xem sớ rồi, đưa cho các quan coi mà thưa nghị.

Có quan Tể tướng Tiêu Võ tâu rằng:

- Ðạo Phật bày từ nhà Hớn, khuên lành răn dữ cũng là có ít cho triều đình lẽ nào dám bỏ, Phật cũng là thánh. Người chê thánh, là người vô phép, xin làm tọi mà răn đời.

Phó Duyệt cải lẽ rằng:

- Lễ là thờ cha mẹ và thờ vua. Ðạo Phật bỏ cha mẹ mà đi tu, không biết tới vua chúa. Trọng người dân hơn cha mẹ. Ông không phải là thầy sãi, sao lại trọng cái đạo không chúa không cha, ấy là ông bất trung bất hiếu đó.

Tiêu Võ chắp tay mà nói:

- Mấy cửa ngục để dành cho những kẻ như vầy.

Vua Thái Tôn đòi quan Thái Bộc là Trương Ðào Nguyên, và quan Trung Thơ là Trương sĩ Hoàn mà hỏi:

- Trẫm lập chùa bố thí có đáng hay không?

Hai ông ấy tâu rằng:

- Ðạo Phật là thanh tịnh hiền lành cho nên vua Võ Ðế nhà Châu chia ba đạo trượng trong đời là: đạo Nho, đạo Phật, đạo Tiên gọi là tam giáo. Ðại Huệ thiền sư linh hiễn, Ngũ Tổ và Ðạt Ma hiện hình. Từ xưa đến nay tam giáo là trọng hơn hết, lẽ nào dám bỏ đi!

Vua Thái Tôn mừng rằng:

- Hai khanh tâu hiệp ý trẫm! Ai còn nói nữa thì làm tội chẳng tha.

Mới sai Ngụy Trưng, Tiêu Võ, Trương Ðào Nguyên, đi chọn một thầy cả, ba ông quan vâng lệnh về.

Ðến bữa sau ba ông chọn lựa trong các sãi, có một Hòa Thượng tài đức song toàn, Hòa Thượng ấy là ai? Là ông Phật Kim Thiền bởi đi chầu trễ mà phải đọa. Quan Âm cho xuống đầu thai. Mới lọt lòng mẹ bị thả trôi sông, gặp Pháp Minh vớt lên mướn vú nuôi tại chùa, ăn chay hồi dứt sữa. Ðến mười tám tuổi thế độ (cạo đầu) quy y. Ông bà cha mẹ ăn lộc Triều đình, mà Hòa Thượng Huyền Trang chẳng mến công danh, vui theo Phật pháp. Tài cao đức trọng kinh sách gồm thông.

Bữa sau vua lâm triều, ba ông dắt Huyền Trang vào đền đồng lạy, ba ông tâu rằng: - Tôi vâng lệnh chọn các sãi, có một hòa thượng nầy tài đức hơn hết là Trần Huyền Trang.

Vua Thái Tôn ngẫm nghĩ hồi lâu, phán hỏi rằng:

- Phải là con quan học sĩ Trần Quang Nhụy hay không?

Huyền Trang lạy vua mà tâu rằng:

- Tôi đó.

Vua Thái Tôn khen rằng:

- Lựa thiệt chẳng lầm.

Liền phong Huyền Trang làm chức:

- Thiên hạ Ðại xiển Ðô tăng Cang. Nghĩa là: Thầy cả các sãi trong thiên hạ.

Huyền Trang lạy tạ ơn.

Vua ban cho cái áo Cà sa dệt ngũ sắc và mũ tì lư. Truyền đến chùa Hóa sanh chọn ngày tốt mà giảng kinh chứng đám.

Huyền Trang lạy tạ nữa, vua cho đưa đến chùa Hóa sanh. Ðếm đặng một ngàn hai trăm thầy chùa, chia ra ba nhà mà ở. Sửa sang xong xả, chọn ngày vào đám là ngày Quý Mão nhằm mồng ba tháng chín năm Kỉ Tỵ, niên hiệu Trinh Quang thứ mười ba ra hạn từ ngày vào đám đến ngày rồi là bảy cái thất, bốn mươi chín bữa, tụng kinh và thí thực cho siêu độ cô hồn.

Ngày mồng ba vua Thái Tôn và các quan tựu đến chùa Hóa sanh thắp hương lạy Phật.

Thầy Huyền Trang dắt các sãi ra lạy mừng vua. Rồi dâng văn tế cô hồn.

Vua Thái Tôn xem rõ văn tế như vầy:

Ðức thánh minh mông,

Cửa thiền lặng lẽ

Sống trên đời tánh qủy hung hăng,

Thác xuống đất hồn ma quạnh quẽ

Nhớ các linh xưa

Mãng tham danh tham lợi,

Không lo lợi phước đôi đàng

Cứ xưng bá xưng vương

Bao quản mất còn hai lẽ

Thương ôi! Xông pha chiến trận

Liều thân mũi đạn đường tên,

Vùng vẫy giang hồ,

Bỏ mạng chân trời góc bể,

Nay chúa ta,

Xem thành Uổng tử,

Khá thương ma đói một đoàn,

Về cõi Dương trần,

Còn nhớ hồn oan nhiều kẻ

Lập một trường Thủy Lục,

Ðãi đằng chúng qủy xa gần,

Nhóm ngàn sãi trì kinh,

Tây Du KýNơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ