Chương 23: Tam Tạng chẳng quên đạo. Tứ Thánh thử lòng thiền

214 3 0
                                    

  Nói về bốn thầy trò đi dọc đàng bày cạn nguồn lòng mối đạo, chuyện trò vui đẹp, chẳng chút ngại ngùng, mãng xem cỏ nội hoa ngàn, bóng ác dường thoi đưa, ba thu đã gần lụn.

Ngày kia trời tối, Tam Tạng nói với đồ đệ rằng:

- Mặt trời chen lặn, biết nhà nào ngủ đỡ một đêm?

Hành Giả thưa rằng:

- Người tu hành thì uống nước suối, ăn trái cây, ngủ ngoài sương, nằm dưới nguyệt, chỗ nào cũng là nhà hết thảy, hỏi thăm xóm làm chi?

Bát Giới nói:

- Anh đi không, thì thong thả hơn hết, chẳng hề thương kẻ nặng nề, cái gánh đồ nầy, có một Lão Trư ra sức. Anh theo làm học trò lớn, để tôi làm chức trưởng công, tôi biết tánh anh muốn làm tiên, chẳng hề gánh vật, còn ngựa của thầy mập quá, để cho tôi gởi gánh đồ.

Hành Giả nói:

- Ngươi tưởng nó thiệt là ngựa hay sao? Ấy là Thái Tử thứ ba, con vua Long vương Tây hải, bởi vì phạm tội, nhờ Quan Âm xin với Ngọc Hoàng, dạy nó phải biến ra con ngựa kim, mà chở thầy cho tới Tây Phương Phật, ai có phần nấy, ngươi còn xeo nó hay sao?

Sa Tăng nghe nói hỏi rằng:

- Nó là rồng thiệt sao anh?" Hành Giả nói:

- Phải.

Bát Giới nói:

- Thiên hạ đồn rằng: Rồng thì có phép thần thông, phun mây vượt biển, sao mà đi chậm như thường?

Hành Giả nói:

- Ðể ta biểu nó nhảy sải cho ngươi coi.

Nói rồi giá cây thiết bảng, hào quang chiếu sáng đỏ trời, con ngựa sợ đánh nhằm nó, liền chạy bay như tên bắn, Tam Tạng gò cương không lại, phải ôm cổ nó mà nằm. Chạy tới cụm rừng ngừng lại, Tam Tạng mới thở ra hơi, ngó thấy trong rừng có xóm, mừng rỡ nói rằng:

- Các đồ đệ, đây có nhà người, hãy ghé vào mà ngủ đỡ.

Hành Giả ngó lên trời. Thấy mây lành che phủ, rạng chói đỏ trời. Biết là Tiên Phật hiện ra, ngặt thiên cơ không dám lậu.

Liền nói xuôi rằng:

- Tối rồi, may lắm, thầy trò vào đó mà ngủ nhờ.

Tam Tạng liền xuống ngựa. Thấy nhà lầu: Rèm che sáo phủ, cột vẽ rường soi.

Bát Giới trầm trồ rằng:

- Chắc là nhà giàu lớn.

Hành Giả bước tới, Tam Tạng cản rằng:

- Chẳng nên, chẳng nên; mình là người tu hành phải giữ phép luật. Ðợi có ai ra cửa, sẽ xin cho vào đó mà ngủ nhờ.

Cùng nhau ngồi trước ngỏ hèn lâu, không thấy ai ra hỏi.

Hành Giả nóng quá, bước vào cửa ngỏ mà xem, thấy ba căn nhà trở mặt về hướng Nam, trong treo một bức sơn thủy. Trước có một cái bàn độc sơn đen. Trên bàn để cái lư đồng rất lớn.

Cột có đôi liễn xuân rằng:

Gió đưa tơ liễu trời vừa tối,

Tuyết đượm bông mai cảnh gặp xuân.

Trước nhà khách để sáu cái ghế da. Có bức bình phong che gió.

Hành Giả đương nhắm nhía, xảy nghe có tiếng giày.

Thấy có đàn bà chừng ba mươi tuổi, bước ra hỏi tiếng dịu dàng rằng:

- Chẳng hay ai ở đâu mà lén vào nhà đàn bà góa?

Hành Giả hãi kinh nói rằng:

- Tôi là sãi Ðại Ðường bên Ðông Ðộ, vâng chiếu chỉ qua Tây Phương lạy Phật thỉnh kinh. Bốn thầy trò tôi đến đây, mặt trời chen lặn, nên vào xin phép cho chúng tôi ngụ đỡ một đêm.

Người đàn bà ấy cười và hỏi rằng:

- Còn ba thầy nữa ở đâu? Xin mời vào luôn thể.

Hành Giả cả kêu rằng:

- Xin mời sư phụ đi vô.

Tam Tạng biểu Bát Giới, Sa Tăng dắt ngựa gánh đồ vào cửa.

Người đàn bà ấy bước ra nghinh tiếp, Bát Giới lén xem nhan sắc như vầy:

Trâm cài lược giắt kể đôi từng,

Châu ngọc tai đeo chiếu sáng trưng,

Son phấn chẳng dồi coi cũng đẹp,

Dung nhan chỉ kém gái còn xuân.

Người đàn bà ấy mừng rỡ, rước bốn thầy trò vào nhà, mời ngồi theo thứ tự.

Xảy thấy con đầy tớ gái, bưng kỉ vàng chén ngọc và một mâm trái cây mùi lạ ngọt ngào, trà ngon thơm ngát.

Người đàn bà ấy xăn tay áo rộng, bưng trà trao đủ bốn thầy.

Lại truyền dọn cơm chay thết đãi.

Tam Tạng chắp tay hỏi rằng:

- Chẳng hay bà họ chi? Và xứ nầy gọi là xứ gì; xin cho tôi biết.

Người đàn bà ấy đáp rằng:

- Ðây thuộc về phương Tây gọi là Ðông Ấn độ. Còn tôi họ Giả, chồng tôi họ Mạc. Cha mẹ chồng tôi mất sớm, vợ chồng tôi coi sóc gia cang. Sự nghiệp muôn vàng, ruộng vườn ngàn khoảnh. Vợ chồng tôi có ba đứa con gái, không đặng chút trai, chồng tôi bỏ mình năm xưa, nay đà mãn phục. Không bà con chi hết, mẹ con tôi giữ gìn gia tài. Muốn gã con lấy chồng, lại sợ không ai coi sự nghiệp. Nay gặp bốn thầy trò ghé lại, bốn mẹ con tôi đương đóng cửa kén chồng. Không biết đại sự có hoan hỉ hay không? Xin cho tôi biết?

Tam Tạng nghe nói, giả điếc làm câm. Cứ lim dim ngồi tưởng Phật.

Người đàn bà ấy nói rằng:

- Tôi có ba trăm dãy ruộng gò, ba trăm dãy ruộng bưng, ba trăm ngôi vườn thanh hoa đẳng vật. Dê heo vô số, trâu ngựa cả bầy, đồng cỏ trái cây hơn bảy chục sở, lúa gạo ăn chín năm không hết, hàng lục mặc mười năm có dư, bạc vàng dùng mãn đời cũng không thiếu. Kể chi nữ trang y phục nệm gấm màn thêu. Nếu bốn thầy trò bằng lòng ở đây, thiệt hưởng phước thanh nhàn khoái lạc. Tội gì chịu cực mà đi không tới Tây Phương?

Tam Tạng cứ làm thinh không nói.

Người đàn bà ấy nói rằng:

- Ngày sanh tôi là giờ dậu, ngày mồng ba tháng tám, năm Ðinh hợi. Chồng tôi lớn hơn tôi ba tuổi. Tôi năm nay đã bốn mươi lăm, con gái lớn tôi tên Chơn Chơn, đặng hai mươi tuổi. Con giữa tên Ái Ái, mười tám tuổi. Con gái út tên Liên Liên, mười sáu tuổi, đều chưa có nơi nào. Tôi tuy xấu xa, chớ ba đứa nhỏ đều xinh tốt. Nghề nữ công cũng chẳng thua ai. Bởi chồng tôi không có con trai, nên cưng chúng lắm. Cho ba đứa ăn học, đều biết làm thi phú văn chương. Tuy ở sơn lâm, mà không thô tục. Tài có sắc cũng có, xứ quê người chẳng quê; nhắm cũng xứng đôi với mấy thầy lắm. Nếu bằng lòng ở đây mà để tóc, thời làm chủ cái nhà nầy. Lại được mặc hàng lụa, ăn thịt thà, chẳng hơn đi Tây Phương, thì mặc vải bô, ăn cực khổ?

Tam Tạng ngồi trơ trơ, như vịt nghe sấm, tợ ếch mắc mưa, cứ lộn thinh con mắt. Còn Bát Giới nghe nói giàu sang thì mê, nghe nói nhan sắc cũng muốn, ngứa nghề nóng họng, ngồi trên ghế không yên, khác nào trong nệm có dồn kim, cứ nhỏm lên nhỏm xuống.

Dằn lòng chẳng đặng, bước lại vỗ Tam Tạng mà nói rằng:

- Thầy không nghe bà chủ nói hay sao? Ngồi lim dim giả điếc. Lẽ nào người nói phải mà làm cách chẳng chịu trả lời?

Tam Tạng giựt mình, trợn mắt và xí một tiếng.

Bát Giới lui về chỗ.

Tam Tạng nói rằng:

- Mi là nghiệp chướng. Người tu hành lẽ nào nghe giàu sang mà dời chí, thấy sắc mà động lòng?

Người đàn bà ấy cười rằng:

- Tội nghiệp thì thôi! Ði tu hành mà có ích chi đó?

Tam Tạng hỏi:

- Vậy chớ bà ở thế lại có ích chi?

Người đàn bà ấy nói rằng:

- Vậy thầy nghe tôi nói việc sung sướng cả đời. Xin đọc bài thơ làm chứng.

Thơ rằng:

Xuân đồi đồ mới dạo xem hoa,

Hạ thưởng sen xanh mặc nhổ nha

Thu có rau thơm và thịt sốt,

Ðông thì nệm ấm với dầu thoa

Tư niên ngủ kỹ không mãi,

Cả kiếp ăn ngon mặc tốt mà

Trút cạn nguồn tình vui một bữa,

Khá hơn tìm tõi kiếm Di Ðà.

Tam Tạng nói:

- Bà hưởng vinh hoa phú quý. Có ăn có mặc, con cái đầy nhà. Bà gọi là tử tế cũng phải. Còn tôi tu hành lại có ít theo tôi. Hãy nghe thử bài thơ thì biết.

Thơ rằng:

Tu hành theo phận chí không nguôi,

Trăng gió phường kia dạ phủi rồi

Ngoài thể tham lam là thể tục,

Trong mình đạo đức biết mình vui

Gắn cóng cầu Phật xin qua đó,

Mở lối từ bi trở lại thôi

Gẫm kẻ ở trần ăn mặc sướng,

E sau đọa xuống chốn tanh hôi.

Người đàn bà ấy nghe nói nổi giận đáp rằng:

- Thầy này thiệt vô lễ. Nếu tôi không vị tình ở Ðông Ðộ, thì chắc đuổi ra ngoài. Tôi thiệt tình muốn dâng sư phụ quý khoái lạc cho mấy thầy, thầy lại nói biếm tôi như vậy! Dầu thầy mắc thọ phép tình nguyện không ưa việc thế thời thôi. Còn đệ tử của thầy, cũng cho đỡ một người làm rễ. Có đâu nói gắt như vậy?

Tam Tạng thấy người ấy giận dữ, liền nói xuôi rằng:

- Thôi, Ngộ Không ở lại.

Hành Giả bạch rằng:

- Tôi từ bé đến lớn không biết việc đời. Xin nhượng cho Ngộ Năng là người thông thạo.

Bát Giới nói:

- Anh đừng trao gánh cho tôi, thủng thẳng luận bàn mới đặng.

Tam Tạng nói:

- Hai đứa bây không chịu, thì để Ngộ Tịnh lại cho.

Sa Tăng bạch rằng:

- Tôi nhờ ơn Bồ Tát dạy biểu tu hành. Tôi tình nguyện theo thầy, chớ không tham phú quý. Có giết thì chịu, chớ không làm trái lẽ như vậy.

Người đàn bà ấy thấy ai nấy không chịu liền bước vào trong, đóng cửa bỏ bốn thầy ở ngoài, không trà nước chi hết.

Bát Giới than thở rằng:

- Thầy không thạo việc, nói một lời bất lợi biết dường nào? Phải chi thầy nói lòng vòng, cũng đặng ăn no ngủ ấm. Rạng ngày chịu không chịu, ai lại ép ai. Chẳng hơn không có cơm ăn, chịu một đêm sao nổi?

Sa Tăng nói:

- Thôi anh ở lại mà làm rễ cho xong.

Bát Giới nói:

- Em đừng trao gánh cho ta, thủng thẳng tính đi tính lại đã.

Hành Giả rằng:

- Không nói dài vắn chi hết. Như ngươi chịu ở lại, thì thầy làm xui với người ấy cho rồi. Ngươi làm rễ nhà giàu mặc sức ăn ngon bận tốt. Chắc dọn tiệc đãi họ, thầy trò ăn một bữa cũng no. Còn ngươi ở lại đây, thì lương toàn vô hại.

Bát Giới nói:

- Anh luận cũng cao, song không khỏi tiếng này: Ra trân rồi về trần. Ðể vợ còn cưới chồng.

Sa Tăng nghe nói hỏi rằng:

- Nói vậy nhị ca đà có vợ hay sao?

Hành Giả nói:

- Em không hay việc ấy. Nguyên là con rễ ông Cao Thái Công ở nước Ô Tư Tạng, bị ta bắt được mới theo. Vả lại Quan Âm có độ trước, nên cũng chẳng đã, phải bỏ vợ theo thầy. Nay cũng lâu ngày muốn bỏ thầy mà cưới vợ. Bát Giới ngươi lạy ta vài lạy, thì ta tính dùm chuyện đó mới xuôi.

Bát Giới đáp rằng:

- Ðừng có nói xàm. Ý ai cũng như nấy, muốn bắt tôi chịu xấu một mình. Lời thường rằng: Thầy chùa đắm sắc, như ma đói thèm cơm. Ai lại gan dạ nào mà nói tốt. Ðiều muốn làm lớn thì làm láo, nói ra thì sợ chúng cười. Ðến nay, dầu đèn cũng không, cơm nước cũng vắng. Người ta rán một đêm còn được, báo hại con ngựa nhịn cỏ, mai đi sao thấu đường xa. Thôi, để tôi dẫn nó đi ăn ba miếng.

Nói rồi mở cương ngựa dắt đi một nước.

Hành Giả nói nhỏ với Sa Tăng rằng:

- Ngươi ngồi đây với thầy, ta theo coi nó đi đâu cho biết.

Nói rồi ra khỏi nhà khách, dùn mình biến ra con chuồn chuồn đỏ, bay theo Bát Giới coi chơi. Thấy Bát Giới dắt ngựa gặp cỏ không cho ăn, cứ dắt ra phía sau đứng đó. Xảy thấy người đàn bà dắt ba đứa con gái, đứng coi bông cúc nơi cửa sau.

Bát Giới dắt ngựa đi trờ tới, ba nàng kia bước trái vào trong.

Tây Du KýNơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ