Về tám con tuấn mã, lai lịch thật sự bất phàm. Là ngựa hoang từ trên núi Khoa Phụ, được Ngự giả Tạo Phụ nổi danh thuần dưỡng sau đó hiến tặng cho Mục Vương. Những con ngựa hoang này, vốn là hậu đại tử tôn của chiến mã tổ phụ của Mục Vương sau khi định thiên hạ đã thả ở núi Khoa Phụ, chúng vẫn bảo tồn được dã tính cùng khí khái anh vũ của tổ tiên. Hơn nữa Tao Phụ không chỉ giỏi điều khiển ngựa, mà còn giỏi chăn ngựa, tám con tuấn mã này đều là một tay hắn dưỡng ra.
Có 2 lời giải thích về tên của chúng.
Giả thuyết thứ nhất, cũng là phổ biến nhất.
Chu Mục Vương căn cứ vào màu lông mà đặt tên.
1/ Xích Ký – Lông màu lửa đỏ.
2/ Đạo Ly – Lông màu đen tuyền.
3/ Bạch Nghĩa – Lông màu trắng thuần.
4/ Du Luân – Lông màu tím xanh.
5/ Sơn Tử - Màu xám trắng.
6/ Cừ Hoàng – Màu vàng nhạt.
7/ Hoa Lưu - Bờm màu đen, đuôi đỏ đen.
8/ Lục Nhĩ – Màu xanh vàng.
Giả thuyết khác là căn cứ tốc độ của riêng chúng mà định tên.
1/ Con có tốc độ nhanh đến móng ngựa không đạp xuống đất gọi là Tuyệt Địa.
2/ Tốc độ vượt trên cả chim gọi là Lật Vũ.
3/ Có thể phi vạn dặm trong đêm gọi là Bôn Tiêu.
4/ Truy được cả mặt trời được gọi là Siêu Ảnh.
5/ Tốc độ lúc chạy chỉ thấy màu lông chợt hiển gọi là Du Huy.
6/ Con có tốc độ nhanh đến thấy mười cái bóng ảnh gọi là Siêu Quang.
7/ Một con gọi là Đằng Vụ, chạy như cưỡi mây.
8/ Con còn lại gọi là Phù Dực, trên thân ngựa có cánh.
Về Tao Phụ, hắn là hậu nhân của Phi Liêm, Phi Liêm là trọng thần của Thương Trụ Vương, sau khi nhà Chu diệt nhà Thương, hắn cũng bị giết. Trong phong thần diễn nghĩa, Phi Liêm cùng Tử Ác Lai được Khương Tử Nha phong làm Băng Tiêu Ngõa Giải chi thần. Mà kỹ thuật của Tao Phụ chính là thuật thừa kế gia truyền.