Là vị vua bất hạnh nhất triều Nguyễn, để có người nối dõi, Tự Đức đã dùng mọi cách chữa vô sinh nhưng kết cục vẫn tuyệt tự.
Tự Đức thể trạng yếu đuối, từ nhỏ mắc bệnh đậu mùa nên rất kém về đường sinh lý. Bản thân vua cũng thừa nhận về tình trạng sức khỏe của
mình trong bài Khiêm cung ký: "Ta bẩm sinh bạc nhược, lúc mới ra đời thì mẹ ta lâm bệnh, đau đến hàng tháng mới lành, vú nuôi của ta không
được cẩn thận, sạch sẽ. Mặc dù mẹ ta la quở, tính vẫn không chừa. Người sợ ta hôn ám nên năm lên ba, liền dứt ngay, không cho bú nữa
và tự ẵm bồng nuôi nấy. Từ đấy, ta ốm đau dai dẳng, nhiều phen lâm nguy, mẹ ta mai tối ôm ấp, hết sức cực nhọc".
Tự Đức lấy vợ khá sớm, năm Nhâm Dần (1442) ông "được phong công tước, xuất phủ và cưới vợ. Chính là năm mà ta chuyên chú vào việc học, cũng năm đó ta được 15 tuổi". Sau này ông còn lấy thêm nhiều thê thiếp khác, thế nhưng những người vợ này đều không sinh hạ được một mụn con nào.
Sức khỏe, chuyện con cái là điều Tự Đức giãi bày nhiều tâm tư trong bài bia ký của mình. Có đoạn ông cho biết khi làm vua, nhiều chuyện đại sự mà bản thân "lại thêm ngày một quá ốm yếu. Rồi bỗng nhiên lâm
bệnh nguy kịch cơ hồ chết đi sống lại. Từ đó, mắt hoa đầu váng, chân
yếu, bụng trệ, các hư chứng nổi lên, không thể thân hành tế tự và siêng năng việc triều chính được. Và cũng do đó mà ta mang lỗi và bị người
chỉ trích". Ông kể tiếp: "Ta thân thể thường ốm, khí huyết suy nhược, đang lúc tuổi trẻ vô sự mà việc nối dõi tự thấy thật khó khăn, không an ủi được nổi lòng mong mỏi của cha mẹ, thật lấy làm thẹn.".Có vợ từ
sớm nhưng lại không có con, câu "Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại", không có con nối dõi là điều lớn nhất là chuyện cứ ám ảnh Tự Đức.
Dù biết về tình trạng bệnh tật, sức khỏe của mình, vua vẫn hi vọng vào các thái y ở Thái y viện sẽ chữa được bệnh vô sinh.
Các ngự y đã nghiên cứu ra 2 toa thuốc nổi tiếng là "nhất dạ lục giao sinh ngũ tử" và "nhất dạ lục giao sinh tứ tử" gồm 20 – 25 vị thuốc đặc
biệt, có tác dụng đại bổ nguyên khí, tăng cường sinh lực,...; dân gian quen gọi là "Minh Mạng thang". Tương truyền nhờ đó mà vua Minh Mạng có sinh lực dồi dào, hưởng nhiều thú vui tình ái, sinh con đông đảo tới 142 người.
Những tưởng đạt ý nguyện khi sử dụng toa thuốc bí truyền kỳ diệu từ ông nội, nhưng Tự Đức vô cùng thất vọng vì nó không công hiệu bởi vua
mắc chứng nan y, dường như đã dứt đường sinh dục. Thuốc cung đình không xong, các Thái y lại dốc sức tìm tòi, lập các phương thang mang
tính đặc trị khác như "Khởi dương thang", "Hà linh vạn thọ đơn", "Diên niên ích thọ bất lão đơn"... Và khi mà thuốc ta không được như ý, nhà vua đã dùng cả đến thuốc ngoại, theo gợi ý của các thái y, Tự Đức sử
dụng đến "Ích thọ vĩnh chân cao" của Thái y viện nước Triều Tiên.
Rốt cục vẫn không có kết quả.Chốn cung đình không làm được việc như mong muốn, Tự Đức lại hi vọng trong dân gian có những bậc danh y tài ba, theo Đại Nam thực lục chính biên, năm Bính Tý (1876) vua ra chỉ dụ:
"Nay, không cứ quan lại, sĩ thứ, xa gần trai gái, người nào chữa khỏi bệnh đau mắt và sinh nhiều con nối, quả thực kiến hiệu thì thưởng cho chức quan tam phẩm, ban thưởng 5000 lạng bạc".
Thế nhưng trong bản dụ ngày 23 tháng 3 năm Bính Tý (1876), vua đã tỏ ý thất vọng khi không tìm được người có thể chữa căn bệnh vô sinh:
"Vua tôi là một thể, đau ốm quan hệ tới nhau, vậy có thể nào coi nhau như kẻ Tần người Việt được chăng?. Thế mà không ai tiến cử một thầy
thuốc giỏi vậy là hạng bầy tôi ưu ái thành thực có đâu lại nên như thế?".
Cùng với việc sử dụng các phương thuốc, Tự Đức còn tuyển nhiều mỹ nhân tiến cung làm phi tần, tổng cộng ông có đến 103 người vợ, nhưng
đến năm 35 tuổi vẫn chưa có con, thậm chí vua còn hạ cố lấy một phụ nữ đã qua một đời chồng, có nhiều con mà vẫn "vô hậu".Tin vào tâm linh, Tự Đức sai người đi cầu tự giúp vua tại chùa, đền, đình miếu có tiếng linh thiêng, cầu mong Trời, Phật, Thần, Thánh phù hộ cho
đạt được ước nguyện. Ông còn sợ chữ Thiên phạm húy với Trời nên đổi tên một số chùa ở Huế như Thiên Mụ đổi thành Linh Mụ, Thiên Ấn đổi thành Từ Ân..., lý do cho hợp lẽ trời đất để cầu tự có con trai kế thừa ngôi báu.
Tất cả nỗ lực của Tự Đức đều thất bại, cuối cùng ông đành chọn 3 người cháu là Ưng Chân, Ưng Đăng, Ưng Kỷ đưa vào cung phong làm hoàng tử, sau chính là các vua Dục Đức, Kiến Phúc và Đồng Khánh.
Bà Trang Ý, tên thật là Vũ Thị Duyên, là khuê nữ của Thái Tử Thái Bảo, Đông Các Đại Học Sĩ, kiêm quản Quốc Tử Giám sự vụ Vũ Xuân Cẩn, một đại thần có nhiều đóng góp trong triều đình nhà Nguyễn.
Khuê nữ tiến cung theo lệ thường của triều đại phong kiến nhà Nguyễn, phàm là con gái của các quan trong triều sẽ được vinh dự, tiến cung làm phi tần "nâng khăn sửa túi" cho hoàng đế và tùy theo phẩm trật của người cha, cô được tuyển vào cấp bậc cao hay thấp. Bà Trang Y không là ngoại lệ, nên sớm được tiến cung ở bên cạnh vua Tự Đức.Trong hàng trăm phi tần muôn phần nhan sắc, bà Trang Ý được vua để mắt và dành trọn tình yêu thương.
Cũng chính vì thế, sau khi tiến cung, chẳng bảo lâu, vào năm Tự Đức nguyên niên (1848), bà được phong vào hàng Tân, năm Tự Đức thứ 3 (1850) được phong làm Cần Phi, năm Tự Đức thứ 13(1860) được tấn phong làm Thuần Phi, rồi lên đến tột đỉnh là Hoàng Quý Phi (vào đời vua Tự Đức, ngài không lập hoàng hậu, mà chỉ cao nhất là hoàng phi). Vì hoàng đế không thể có con nên năm 1868, bà còn được giao việc nuôi dạy Dục Đức làm thế tử.
Không những bản thân được vinh hiển, gia đình và dòng họ bà nhờ thế cũng nhận được nhiều ân sủng của triều đình.Nỗi buồn khó nói
Dù được vua Tự Đức thương yêu nhất, bà Trang Ý vẫn phải chịu cảnh "chiếu đơn, giường lạnh". Nguyên do là không phải ông hoàng "say hoa"
ở nơi nào khác, mà từ nhỏ, vua mắc bệnh đậu mùa, lại hay ốm đau nên sức khoẻ không được sung mãn. Tệ hơn, về đường sinh lý, ông còn bị bất lực nên không thể "gần gũi" đàn bà...
Bà Trang Ý vẫn hết lòng với vua và luôn cố gắng hoàn tất vai trò trong chốn hậu cung để xứng đáng với địa vị được sùng ái. Thế nhưng, ở đời mấy hai học hết chữ ngờ... Và chuyện là vào năm Tự Đức thứ 35
(1882), tình hình đất nước có nhiều biến động, vua quá bận với việc chủ trì các cuộc họp bàn của triều đình để tìm phương đối phó với giặc Pháp, đã khiến sức khỏe suy sụp, lại thêm tật hay nổi cáu, tức giận đột ngột và vô cớ.
Cá bà vợ của vua Tự Đức sống đến đầu thế kỷ XX. Một lần do sự chậm trễ thuốc men của người phục dịch, Tự Đức nổi trận lôi đình, buộc tội bà Trang Ý là thiếu cẩn trọng, giáng xuống hàng
Trung Phi. Lúc đó, bà vô cùng đau khổ. Mãi sau này, vua hối hận - trước khi chết (19/7/1883), đã di ngôn truyền phải phong cho bà Trang Ý làm Hoàng hậu.
Sau khi vua Tự Đức băng, Thế tử Dục Đức là con nuôi lên kế vị, nhưng ở ngôi vị được ít ngày thì bị các quyền thần Nguyễn Văn Tưởng và Tôn Thất Thuyết phế truất và tống ngục... Thế là việc tưởng dễ lại bất thành...
Phục chức trở thành Khiêm cung hoàng hậu.
Vua Hiệp Hoà nối ngôi, muốn y theo lời căn dặn cuối cùng của hoàng huynh định tấn phong bà chức Hoàng Hậu. Nhưng tình hình chính trị lúc bấy giờ quá căng thẳng, bi đát, đã xin được từ mệnh. Hiệp Hoà nài nỉ,
bà viện lý do có tang, thêm Dục Đức bị tống ngục - bà cũng có phần chịu trách nhiệm, do đó chỉ xin một ân huệ làm Khiêm Cung để ngày
đêm lo việc hương khói phụng thờ cố hoàng đế. Được chấp thuận, bà Trang Ý cùng hàng trăm thứ phi của vua Tự Đức rời Hoàng thành lên Khiêm Cung.
Vua Hiệp Hoà lệnh cho triều thần tham cứu sử cũ, tìm một tiền lệ sách phong cho bà một tước vị danh chính ngôn thuận. Sau một thời gian, họ
đã sưu tầm được các sử liệu như: đời nhà Đường có Bửu Lịch hoàng hậu ở điện Nghĩa An được phong là Nghĩa An hoàng hậu; đời Tống Hiến
Tích Thái hậu ở cung Minh Đức cũng được phong Minh Đức hoàng hậu.... Như vậy, chiếu sử liệu, có thể lấy tên điện, tên cung mà tôn phong.
Bà Trang Ý ở Khiêm cung được phong là Khiêm Cung Hoàng Hậu. Bản sách phong được rước lên Khiêm Cung và long trọng tuyên đọc, bà
Trang Ý phụng mệnh và mọi việc êm đẹp. Khiêm hoàng hậu tức Lệ Thiên Anh hoàng hậu đã sống tại Khiêm Cung cho đến ngày 24/5/1920 thì qua
đời. Lăng bà được xây dựng ngay trong khuôn viên lăng Tự Đức, đó là Khiêm Thọ lăng, nơi đây mỗi ngày có hàng trăm khách du lịch đến thăm
quan....Mặc dù kết cục có hậu, song xét về khía cạnh một người đàn bà, bà Trang Ý ít nhiều vẫn là người phụ nữ bất hạnh.
Bà cũng là một trong những đại diện tiêu biểu cho những bà hoàng, bà phi trong các triều đại phong kiến Việt Nam. Những người một khi đã bước chân vào phúc hay bất hạnh, tràn đầy hạnh phúc hay ão não u buồn... tất cả chỉ phụ thuộc vào một người duy nhất: hoàng đế!
YOU ARE READING
Edit Vương triều Tự Đức
Historical FictionLink:http://santruyen.com/vuong-trieu-tu-duc.html