II. Phần Lịch sử. Chương một: Thời đại Phật giáo du nhập

46 0 0
                                    


Phật giáo ở Ấn Độ truyền bá đi các nước lân cận do hai đường thủy và bộ. Về đường thủy thì qua miền Trung Á như Mông Cổ, Tây Tạng và Trung Hoa; rồi từ Trung Hoa qua Cao Ly và Nhật Bản. Về đường bộ thì qua đảo Tích Lan và Java truyền vào Indonésie, Đông Dương và Trung Hoa. Nước ta ở vào giữa hai con đường ấy. Vậy Phật giáo truyền đến đâu và từ đời nào, ta phải khảo lấy mấy thuyết sau này :

1. Những sách của các nhà sư Việt Nam viết từ thế kỷ thứ 13 và 14 có chép : "Chính đời nhà Hán (thế kỷ thứ 2 và thứ 3) đã có các đạo sĩ ở Bắc như ông Ma-ha-kỳ-vực (Mârijivaka), Khương Tăng Hội (K'ang-song-hoeuei) và Mâu Bác (Meou-pô), ngài thì do theo đường thủy, ngài thì đường bộ mà đến truyền giáo ở nước Việt Nam ta".

2. Sách Ngô Chí của Trung Hoa chép: "Sĩ Nhiếp là một vị Thứ sử có oai quyền ở Giao Châu, được dân bản xứ tôn kính, khi ra đi người ta thường nghe có tiếng kiểng lẫn tiếng trống kèn, bọn rợ Hồ đi theo thắp hương hai bên xe có từng đoàn mười người..."

Theo ông Sylvain-levi kê cứu, thì Hồ là một thứ tiếng riêng của người Trung Hoa về thế kỷ thứ 3 dùng để chỉ bọn người phương Tây. Vậy Hồ đây có lẽ là người Trung Á hay người Ấn Độ.

3. Truyện Đàm Thiên Pháp sư có chép: Vua Cao Tổ nhà Tùy bảo Pháp sư rằng : "Trẫm nghĩ đạo Từ bi của đức Điều Ngự, không biết báo ơn thế nào cho phải, Trẫm lạm giữ ngôi dân chủ, muốn rộng truyền đạo Tam bảo, đã thu khắp di hài Xá-lỵ, lập được 49 ngọn Bảo tháp trong nước để làm tiêu biểu cho Đạo và làm được hơn 150 ngôi chùa rồi. Bây giờ Trẫm lại muốn lập Chùa dựng Tháp khắp Giao Châu (danh hiệu nước Việt Nam từ đời Bắc thuộc) để cho đạo đức nhuần khắp thế giới. Cõi Giao Châu tuy nội thuộc nước ta mà xa xôi quá, vậy Pháp sư nên tuyển lấy các thầy Sa-môn đức hạnh, sang mà hoằng hóa cho dân ấy, để hết thảy chúng sinh đều biết đạo Bồ-đề". Pháp sư liền tâu : "Cõi Giao Châu có đường thông sang Thiên Trúc gần hơn ta. Khi Phật giáo chưa du nhập vào đất Giang Đông ta[1] mà ở cõi ấy đã xây dựng được hơn 20 ngọn Bảo tháp, độ được hơn 500 Tăng sĩ, dịch được 15 bộ kinh rồi. Vì ở bên ấy gần nước Phật hơn ta. Bấy giờ có các vị Ma-ha-kỳ-vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương và Mâu Bác đến ở truyền đạo . . . Ngài muốn bố thí một cách bình đẳng, phái Chư Tăng sang truyền đạo, nhưng ở đó họ đã có đủ rồi, ta không cần phải sang nữa."

4. Sách Pháp vụ thực lục chép : "Vào hồi thế kỷ thứ ba có một ông tên là Kaudra gốc ở Đông ấn, gióng Brahmanes qua Giao Châu một lần với ông Ma-ha-kỳ- vực..."

Cứ theo mấy dẫn chứng trên đều thấy hợp nhau và cùng thấy mấy ngài Ma-ha-kỳ-vực, Khương Tăng Hội,Chi Cương Lương, Mâu Bác là bậc truyền đạo đầu tiên ở nước ta .

1. Ma-ha-kỳ-vực (Mârajivaka hay là Jivaka) :

Trong sách Cao Tăng truyện có chép : "ông Ma-ha- kỳ-vực gốc ở Ấn Độ, đi du lịch các nước bắt đầu từ Ấn Độ đến Founan theo đường Giao Châu và Quảng Châu (Bắc kỳ và Quảng Đông bây giờ); qua nơi nào ngài cũng làm phép lạ. Khi đến Tương Dương, muốn qua đò, nhưng người lái đò thấy ngài quần áo rách rưới không cho xuống, đến khi đò ngang cặp bến thì mọi người đều lấy làm lạ thấy ngài đã ở bên này sông rồi."

Việt Nam Phật Giáo Sử Lược - Thích Mật ThểNơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ