Chương chín: Phật giáo trong thời kỳ cận đại

16 0 0
                                    


PHẬT GIÁO TRONG THỜI KỲ CẬN ĐẠI (TRIỀU NGUYỄN)

Sau đó, Nam triều có vua Tây Sơn nổi lên chúa Nguyễn bị mất quyền. Trong mấy năm trời việc chính trị trong nước bị rối ren, ngoài Bắc chúa Trịnh cũng không giữ ngôi cho nhà Lê được nữa. Vua Chiêu Thống phải chạy sang Trung Hoa, vua Tây Sơn thống nhất thiên hạ.

Không bao lâu, chúa Nguyễn Phúc Anh mượn quân Pháp về diệt được Tây Sơn và lập nên nhà Nguyễn nhất thống, lấy niên hiệu là Gia Long.

Từ lúc vận nước thay đổi, Phật giáo cũng bắt đầu đình đốn và lần đến suy đồi, vì bị trải qua một trận chiến tranh với Tây Sơn, chùa chiền bị phá hủy, Tăng chúng loạn lạc, nên dù sau khi đã bình định, cũng chỉ còn lại những cảnh tượng sơ sài mà thôi. Từ đây trở đi trong lịch sử không thấy chép gì để căn cứ một giai đoạn vẻ vang cho lịch sử Phật giáo nữa. Dưới đây là những việc của nhà vua đối với Phật giáo:

Niên hiệu Gia Long năm Ất Hợi (1815), vua sắc sửa lại chùa Thiên Mụ và triệu ngài Mật Hoằng vào kinh cấp bằng Tăng Cang. (Ngài người Bình Định, sau khi xuất gia, lưu ngụ các miền trong tỉnh Gia Định. Sau ngài có Trú trì ở chùa Quốc Ân-một người rất có công lớn ở chùa Quốc Ân).

Năm Minh Mệnh thứ bảy (1826), sắc lập lại chùa Thánh Duyên (nguyên chùa Thánh Duyên dựng vào đời Nguyễn Chúa Nguyễn Phúc Chu, sau truy tôn Hiển Tôn Hiếu Minh Hoàng Đế (1691 - 1725), sau bị Tây sơn phá hủy (chùa ở gần cửa bể Tư Hiền, Thừa Thiên). Năm thứ II (1822) vua sắc các nhà sư ở ngoại tỉnh đến kinh, do bộ Lễ xét rồi ban cấp Độ điệp

Năm Giáp Thìn niên hiệu Thiệu Trị thứ tư (1844) vua vâng di chúc của đức Minh Mạng, sắc xây ở chùaThiên Mụ một ngôi tháp lớn 7 tầng gọi là Từ Nhơn tháp, năm sau đổi lại là Phước Duyên bảo tháp. Cũng trong niên hiệu ấy, vua sắc lập chùa Diệu Đế (chỗ này nguyên xưa là một khuôn vườn của một người về dòng Thích-lý, tương truyền sau là phủ ngài ở, sau khi lên ngôi ngài đổi phủ làm chùa). Niên hiệu Tự Đức thứ ba (1849), nghị chuẩn các quan tự (chùa công) như Thiên Mụ, Giác Hoàng.v.v... mỗi nơi đều phải có Tăng Cang một ngài để chỉ huy Tăng chúng, trông nom chùa, đều có lương bổng chi cấp. Năm thứ bảy (1853) tháng 12, vua sắc cấp công điền cho các chùa tại kinh như: Thiên Mụ, Diệu Đế, Thánh Duyên, Linh Hựu, Long Quang, và các chùa ngoài kinh như Tam Thai, Ứng Châu (QuảngNam), Khai Tường (Gia Định).

Ngoài ra các khoản sắc về cúng lễ như rằm Trung thu, Thánh Thọ, Vạn Thọ v.v. . . rất nhiều.

CÁC VỊ DANH TĂNG TRIỀU NGUYỂN

Phổ Tịnh Hoà thượng: Ngài húy là Đạo Minh thụy Viên Nhất, người Quảng Nam. Niên hiệu Gia Long thứ bảy (1898) vâng sắc lệnh bà Hiếu Khương Hoàng Thái hậu Trú trì ở chùa Thiên Thọ (tức Báo Quốc bây giờ). Ngài tịch vào năm Gia Long thứ 15 (1816).

An Thuyền Đại sư: Không rõ ngài tên họ là gì, chỉ biết ngài ở chùa Đại Giác Bồ Sơn (thuộc tỉnh Bắc Ninh), ngài tu hành tinh tấn, học hạnh kiêm toàn. Vào khoảng niên hiệu Minh Mệnh thứ 6 đến thứ 9 (1825 -1828), ngài có làm bộ sách "Đạo Giáo nguyên lựu" ba quyển, được lưu hành.

Nhất Điện Hòa thượng : Ngài húy Tánh Thiên người Quảng Trị. Ngài đồng niên xuất gia thế độ với Hòa thượng Phổ Tịnh, thọ giới với Hòa thượng Mật Hoằng. Năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), ngài sung chức Trú trì chùa Linh Hựu, ngài cố từ không được; năm thứ 20 ngài lại được sắc thăng chức Tăng Cáng chùa Giác Hoàng. Niên hiệu Thiệu Trị thứ ba (1843), ngài xin phép từ chức dưỡng lão, ngài có đắc ý hai câu :

Việt Nam Phật Giáo Sử Lược - Thích Mật ThểNơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ