Chương hai: Phật giáo đời hậu Lý Nam Đế và đời Bắc thuộc thứ ba

38 2 0
                                    


Tiền Lý Nam Đế mất, Triệu Quang Phục nối nghiệp xưa là Triệu Việt Vương (549-571), rồi lại bị Lý Phật Tử đánh thua và lên làm vua tức Hậu Lý Nam Đế.

Đến năm Nhâm Tuất (602), vua nhà Tùy là Văn Đế sai tướng Lưu Phương sang đánh Nam Việt, dụ Phật Tử ra hàng. Hậu Lý Nam Đế yếu thế bèn qui phục, nước ta lại bắt đầu nội thuộc nước Trung Hoa lần thứ ba, từ năm 603 đến năm 939.

Trong năm 580, nước ta có ngài Tì Ni Đa Lưu Chi qua truyền Phật giáo, rồi lần lần truyền thống thành ra một phái Thiền Tôn.

Phái Tì Ni Đa Lưu Chi

Sách Cổ Châu Pháp Vân Phật Bổn Hạnh ngữ lục có chép: «Vào khoảng đời Đông Tấn (317 - 419) niên hiệu Tả Kiến (569 - 582), có một Pháp sư tên là Tì Ni Da Lưu Chi người Ấn Độ, nhận biết có Phật giáo ở đây (Nam Việt) liền qua trú ở chùa Pháp Vân giảng dạy Phật pháp. Phật giáo ở đây thạnh hành từ đó»

Sách Đại Nam Thuyền Uyển Tập Anh cũng có dẫn lời ngài Thông Biện Thiền sư nói : Tì Ni Đa Lưu Chi là Sơ tổ của Thiền Tôn ở nước ta.

Ngài tên chữ Phạn là Vinitaruei, người ở Nam Thiên Trúc, sang Tây Thiên Trúc để khảo đạo Phật, nhưng vì cơ duyên chưa gặp, nên ngài qua cõi Đông Độ tiến vào Trung Hoa đến Trường An năm 574. Lúc này Phật giáo ở Trung Hoa đương bị bài xích[1].Ngài muốn qua đất Nghiệp (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) may gặp ngài Đệ Tam tổ Tăng Xàng ở núi Tư Không, ngài liền đem lòng kính mộ và xin làm đệ tử; Tam tổ truyền tâm ấn cho và khuyên ngài qua Nam phương mà tiếp độ chúng sinh chớ không nên ở đây làm gì Ngài liền bái từ ra đi. Đến Quảng Châu ngài Trú trì ở chùa Chế Chỉ, dịch kinh "Tượng Đầu báo nghiệp sai biệt" chữ Phạn ra chữ Hán. Đến năm Canh Tý niên hiệu Đại Tường thứ hai nhà Chu (580), ngài qua Nam Việt trú trì ở chùa Pháp Vân (làng Văn Giáp, huyện Thượng Phúc, tỉnh Hà Đông bây giờ) lại dịch bộ kinh "Tổng trì". Năm Quý Sửu niên hiệu Khai Hoàng thứ 14 nhà Tùy (594) ngài truyền tâm ấn cho ngài Pháp Hiền rồi tịch.

Đến đời nhà Lý, vua Thái Tôn (l028 - l054) có làm bài kệ truy tán ngài rằng :

Sáng tự Nam lai quốc

Văn quân cửu tập thiền.

Ứng khai chư Phật tín,

Viễn hợp nhất tâm nguyên.

Hạo hạo Lăng-già nguyệt,

Phân phân bát-nhã liên.

Hà thời hạnh tương kiến,

Tương dự thoại trùng huyền.

Dịch:

Mở lối qua Nam Việt,

Nghe ông chỉn học Thiền

Nguồn tâm thông một mạch,

Cõi Phật rộng quanh miền.

Lăng-già ngời bóng nguyệt,

Bát-nhã nức mùi sen.

Biết được bao giờ gặp,

Cùng nhau kể đạo huyền.

Ngài là Sơ tổ phái Thiền Tôn thứ nhất ở nước ta, sau ngài truyền pháp cho Pháp Hiền Thiền sư, rồi truyền thống mãi đến đời Y Sơn Thiền sư (1216) được 19 đời, biết được danh hiệu và sự tích cọng 31 ngài[2] .Xét ngược lên về trước thì ngài là đệ tử đức Tam tổ Tăng Xáng[3]. Ngài Tăng Xáng là đệ tử của đức Nhị tổ Huệ Khả và ngài Huệ Khả là đệ tử của đức Bồ-đề Đạt-ma (Bodhidharma), tức là Sơ tổ phái Thiền tôn ở Trung Hoa vậy (Xem phần Phật giáo ở Trung Quốc).

Việt Nam Phật Giáo Sử Lược - Thích Mật ThểNơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ