Gần nửa tháng rồi, trong làng Văn Khoa, lúc nào cũng náo nức, rộn rịp như sắp kéo hội.
Đình trung, điếm sở cũng như quán nước hàng quà, chỉ làm chỗ hội họp của các ông già, bà già và những cây gậy trúc mũi sắt, những gói trầu cau lớn bằng cái đấu.
Chuyện mới, chuyện cũ luôn luôn theo những bãi cốt trầu, những làn khói thuốc đồng thời tuôn ra và nổ như bỏng rang.
Ông này nhắc làng mình thật được hướng đình. Ông kia đoán họ Trần kết ngôi mộ tổ. Bà này bảo cụ Đồ phúc đức hiền hậu, chịu khó lễ các đền chùa. Bà kia khen cô Nghè(1) tốt nết, đủ điều, biết phân biệt kẻ trên người dưới.
Cái hoa gạo nở đầu tháng Giêng đã được tán là điềm tốt. Con khanh khách kêu trên các đình giữa ngày khai hạ, cũng được tôn làm tin mừng.
Câu chuyện tuy chỉ quanh quẩn có thế, nhưng sự nô nức đã bắt người ta cứ phải chiếu đi chiếu lại, bàn tán hết ngày ấy sang ngày khác, đầu làng cuối làng, thường có những tiếng cười nói rầm rầm.
____________________
(1). Vợ quan NghèHôm nay lại càng tấp nập hơn nữa.
Từ lúc trời mới sáng rõ, một hồi mõ đã tiếp tiếng vang của ba hồi trống cái khua động góc trời trên đình.
Với chiếc dải lưng lụa đỏ bỏ múi sang cạnh sườn, Lý trưởng không khác Phó lý, Trương tuần, tung tăng vác thước chạy nháo từ đình đến điếm.
Giữa một hồi ti u của những tiếng hiệu ốc đi đôi với diệp hiệu sừng, người ở các xóm kéo ra tíu tít.
Chỗ này vài chục đàn ông đi với mai, thuổng, xẻng, cuốc, gậy nạng và câu liêm; chỗ kia mươi người đàn bà và những quang, thúng, sảo, sọt lủng lẳng dưới đầu đòn gánh.
Một toán lại một toán.
Một lũ lại một lũ.
Ống quần bẳn(1) trên đầu gối, gấu váy kéo lên đến nửa bụng chân, các toán, các lũ lần lượt tiến vào sân đình.
Một bầu ồn ào chiếm cả khu đình và điếm.
Mặt trời từ trên ngọn tre xuyên sang mái đình tưng bừng đón tiếng chào của đàn chim sẻ. Ánh sáng lóng lánh chiếu trên núm quả dành của đôi đồng trụ cửa đỉnh.
Cái ồn ào mỗi lúc mỗi lớn.
Chĩnh nước chè khô đã bị mấy chục bát đàn vục cạn. Hai thúng cau khô để đó dần dần biến thành những đống bã trầu tàn. Hết thảy các toán, các lũ nhất tề đứng dậy. Như một đạo quân ra trận, mấy trăm con người rầm rập kéo lên đầu làng và vui vẻ tiến thẳng đến đoạn đường cùng tận địa giới.
____________________________
(1). Bẳn: xắn lên.Theo mệnh lệnh của ông Lý, ông Phó, ông Trương, dân phu bắt đầu sang sửa từ đầu địa phận trở về.
Các bầu tát nước đều được bồi đắp phẳng phiêu.
Những đám cỏ gấu ven đường đều bị giẫy sạch và hắt xuống ruộng.
Người ta cắt hết những cây vẩy ốc bám ở ven thành.
Người ta "giật" hết những cái ánh tre khum khum rủ trên đường cái.
Người ta quét cho hết những đống cặn rác kinh niên bừa bãi khắp các đầu ngõ ven đường.
Hương lý vẫn thúc giục vồn vã.
Tù và vẫn rúc từng hồi dài từ xóm nọ đến xóm kia.
Nắng dần dần gắt thêm.
Trời dần dần nóng thêm.
Mấy trăm bộ mặt đỏ bừng như đồng tụ mồ hôi đổ ra bóng nhoáng. Nhưng cái oi bức của tiết đầu hạ vẫn không ngăn nỗi sự nô nức của đám người làm việc hết lòng.
Gần đến nửa buổi, bao nhiêu khúc đường khấp khểnh, gồ ghề đều trở nên những dải đất óng nuột như tấm lụa mới. Những tiếng người nói vui như ngày Tết, lại đưa các toán, các lũ dân phu lần lượt trở về sân đình.
Một tuần trầu nước vừa tàn, Lý trưởng đứng trên thềm đình dõng dạc nói xuống:
- Trưa lắm rồi! Xin chạ(1) đi rửa chân tay và cất đồ đạc. Rồi chạ đến luôn nhà quan tân khoa, để còn làm rạp, kê phản, sắp sửa đĩa bát mâm nồi, kẻo nữa không kịp!
___________________________
(1). Chạ: tiếng gọi chung hạng bình dân trong làng thời trước.

BẠN ĐANG ĐỌC
Lều chõng
General FictionLều chõng đã thực hiện "một tua du lịch" sinh động, thú vị, giúp các thế hệ hậu sinh, lội ngược dòng thời gian để tiếp cận và khám phá về Lều chõng, khu vực có ý nghĩa đặc biệt, không chỉ là chuyện văn chương, chữ nghĩa mà còn gắn bó mật thiết đến v...