V

146 4 0
                                        

Một hồi gà gáy âm ô, làm cho Vân Hạc giật mình thức giấc.
Ngọn đèn trên quang lù mù sắp tắt, đọi dầu đã gần cạn khô. Không muốn làm phiền thằng nhỏ, chàng tự đứng lên rót dầu vào đèn, và dụi cái tàn đỏ ối ở đầu sợi bấc. Rồi chàng mở cửa ra sân.
Trăng chưa lặn. Ánh vàng chênh chếch nhòm vào dàn hoa. Những bóng cây nhài, cây mọc dương leo lên thềm. Mặt thềm khoang khửa như một bức tranh thủy mạc.
Trời hãy còn sớm. Trống ngoài điếm mới điểm canh tư. Các nhà láng giềng vẫn im phăng phắc.
Chàng toan vào phòng ngủ thêm. Xịch nhớ hôm nay là kỳ bình văn, phải đến trường sớm hơn mọi ngày, ngủ nữa, e rằng quá giấc, dậy trưa, thì đi không kịp. Chàng bèn súc miệng, rửa mặt, rồi một mình đủng đỉnh dạo dưới bóng trăng.
Trong đám ánh trăng trong vắt, thỉnh thoảng điểm một làn gió hiu hiu, hết thảy bóng cây trước sân đều bị rung động. Chàng bỗng tưởng đến cái cảnh Trương Sinh đợi Thôi Oanh Oanh trong truyện Tây Sương, liền ngâm:
Đãi nguyệt Tây sương hạ.
Nghênh phong hộ bán khai.
Cách tường hoa ảnh động.
Nghi thị ngọc nhân lai(1).
Thế rồi hình ảnh cô Ngọc tức thì hiện ra trong óc. Chàng khen ông Đồ Vân Trình cũng khéo tìm chữ đặt tên cho con. Với cái nước da trắng nõn, với cái khuôn mặt trái xoan và cái dáng bộ yểu điệu, nàng thật đáng gọi là ngọc nhân lắm.
Chàng nhớ những hôm qua chợ Kim Bảng, tình cờ nhìn vào hàng nàng, bao giờ nàng cũng tươi như bông hoa, và không bao giờ mà nàng có vẻ ngoa ngoắt trai lơ như bọn con gái kẻ chợ. Chàng tự cho rằng: mình lấy được nàng, tức là danh sĩ sánh với giai nhân, chẳng kém gì những cặp vợ chồng trong tiểu thuyết. Nhưng chàng lại băn khoăn rằng: trước kia nàng đã đính hôn với Trần Đằng Long, thì với chàng, nàng có nghĩa là vợ chưa cưới của một người bạn. Bây giờ chàng kết duyên với nàng, hoặc giả cũng bị thiên hạ chê cười. Rồi chàng tự an ủi rằng: việc này do ở cụ Bảng ép chàng, không phải tự chàng mà ra. Một người đạo mạo nghiêm nghị và yêu chàng, quý chàng như cụ Bảng Tiên Kiều, không lẽ dạy học trò làm điều trái với danh giáo? Song mà chàng vẫn không hiểu vì sao cụ Bảng lại cố ghép nàng với chàng, vì sao hôm nọ, trong khi khuyên chàng lấy nàng, cụ lại bảo rằng: nếu chàng bằng lòng cưới nàng làm vợ, tức là cứu cái đời nàng, tức là làm ơn cho Trần Đằng Long? "Hay là nàng với Nghè Long ngày xưa đã có chuyện gì ám muội?" Chàng nghĩ như thế, rồi chàng lại tự hối hận, cho là mình đã vô lễ với nàng. Chàng tin nàng là con nhà gia giáo, không khi nào lại làm những việc bất chính.
_____________________
(1). Dịch nghĩa:
Cửa hé theo luồng gió,
Trăng chờ dưới mái Tây.
Chạm tường hoa động bóng,
Người ngọc đến đâu đây.
(Đây là thư hẹn hò giữa Thôi Oanh Oanh với Trương Sinh - Trích từ cảnh II, mục II, phần thứ ba trong vở tuồng Tàu Tây Sương ký, do Vương Thừa Phủ viết - Nhượng Tống dịch).

Mặt trăng từ từ luồn vào bóng mây, bầu trời dần dần vẩn đục. Chàng bèn lững thững bước vào trong phòng. Vừa đi, chàng vừa lẩm bẩm một mình. Có lẽ vợ chồng là duyên số thật. Ừ, xưa kia mình tuy biết nàng, nhưng vẫn không hề nghĩ đến nàng. Thế mà từ bữa nghe Đồ Mẫn nói, nhất là từ bữa nghe cụ Bảng nói đến giờ, không phút nào mà ta quên nàng. Cái đó mới lạ cho chứ! Không biết trong những lúc này, nàng có nghĩ gì đến ta hay không? Chắc có! Ta nhớ nàng, tất nhiên nàng cũng nhớ ta, nếu như cụ Bảng đã ngỏ cho nàng biết cái ý định của cụ.
Trời sáng, Vân Hạc cắp nón vừa ra đến cổng, thì gặp Khắc Mẫn. Hai chàng liền sánh vai cùng tới trường học.
Trong các lò "rèn đúc nhân tài" bấy giờ, trường của cụ Bảng Tiên Kiều là lớn hơn hết. Trừ ra mươi cậu đồng sinh là những con cháu trong nhà, học trò cụ Bảng chỉ có hai lớp đại tập và trung tập. Trung tập hàng ngày phải đến nghe sách, hàng tuần phải học làm văn. Còn đại tập thì mỗi tháng tập văn hai kỳ. Kể cả đại tập và trung tập, học trò trong trường có tới gần ba trăm người.
Vân Hạc và Khắc Mẫn đi đến cửa trường thì các cậu học trò trung tập cũng vừa tấp nập kéo đến.
Sau khi những chiếc nón sơn quai chuỗi lần lượt úp lên các tường, cả mấy trăm người nghiêm trang ngồi sắp hàng ở các dãy ghế.
Cụ Bảng còn ở nhà trong chưa ra.
Một cậu học trò bé con chạy đến rỉ tai Vân Hạc:
- Thầy bảo anh bình văn xong rồi phải ở lại đây, để thày còn dặn gì đấy.
Rồi thì học trò đại tập lục tục đến dần.
Rồi thì, năm gian tiền tế, thênh thang như năm gian đình dần dần hiện ra quang cảnh chật hẹp, kẻ ngồi người đứng lố nhố khắp trong nhà ngoài thềm.
Trống cái thong thả điểm một hồi ba tiếng.
Học trò trên các phản ghế hết thảy trở lại hàng lối nghiêm chỉnh.
Hai cậu nhỏ tuổi lễ mễ bưng điếu bưng tráp và mang giỏ ấm, khay chén đặt lên án thư.
Những tiếng thì thầm xôn xao nhất tề im bặt.
Cụ Bảng ở nhà trong ra với một bộ khăn áo chỉnh tề. Trên các phản ghế, học trò răm rắp đứng dậy khắp lượt.
Khoan thai cụ ngồi vào tấm ghế sau chiếc án thư và mở nắp tráp lấy gói thuốc lá ra cuộn. Tất cả học trò cùng răm rắp ngồi xuống. Một cậu nhỏ tuổi lễ phép đến trước án thư, sẽ bưng bộ đồ đánh lửa ra thềm.
Qua một hồi kỳ cạch của hòn đá lửa đập vào thỏi sắt, lửa ở trong đá đã bật ra lớp bùi nhùi trong cái hộp gỗ và bén vào đó, cậu ấy rón rén nhón lấy một ít bùi nhùi có lửa, tiếp mồi giấy, phì phò thổi cho thành ngọn, để châm sang sợi ruột gà, rồi đệ vào trước cụ Bảng. Đón sợi ruột gà và châm lửa vào mồi thuốc lá đã cuộn, cụ Bảng ra hiệu cho các học trò đọc sách.
Một cậu trung tập cung kính đệ một chồng sách in lên án.
Bằng một câu xin phép rất lễ độ và mấy tiếng đằng hắng rất dõng dạc, một cậu tốt giọng nhanh nhẹn mở sách ra đọc.
Tất cả học trò cặm cụi mở sách ra coi.
Theo lệ hàng ngày, mỗi buổi đều đọc đủ ba thứ sách: Kinh, Truyện và Sử.
Hôm nay bắt đầu đọc Kinh dịch, rồi đến sách Trung Dung rồi đến cuốn Tống Sử.
Một khi đọc hết bài cái, bài bàn của một chương nào trong sách, cả trường im lặng như tờ. Mấy trăm con mắt đều chăm chỉ ngó vào cuốn sách của mình. Mấy trăm lỗ tai đều bình tĩnh đợi nghe lời giảng của thày.
Bằng cái giọng sang sảng như tiếng chuông đồng, cụ Bảng giảng rất rành mạch từ nghĩa đen đến nghĩa bóng, từ nghĩa gần đến nghĩa xa, cụ chỉ rõ ràng lời bàn nào là phải, lời bàn nào là quấy. Cụ nói như rót vào tai học trò.
Khi giảng đến hào Lục tam của quẻ Khôn Kinh Dịch, cụ đặt mồi thuốc xuống án và hỏi một cách sửng sốt:
- Các anh nghe chương này có thấy gì không?
Các cậu học trò đều không trả lời, vì không hiểu ý cụ hỏi ra sao.
Cụ liền nhìn vào cuốn sách và cất cao giọng:
Lục tam, hàm chương khả trinh,
Hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung.(1)
Và cụ lại gặng:
- Các anh tưởng nó có đúng với điệu lục bát trong các ca dao của ta hay không?
Rồi cầm mồi thuốc hút thêm một hơi, cụ vừa rung đùi vừa tiếp:
- Trong Kinh, Truyện, Sử mỗi bộ đều có một câu lục bát. Ở Kinh là câu ấy rồi, còn ở Truyện thì là câu gì?
Các cậu học trò cố sức lục hết trí nhớ để tìm lấy câu trả lời. Nhưng không ai nói câu nào. Cụ vuốt chòm râu bạc phơ và ngâm:
Phù thủy, nhất thược chi đa,
Cập kỳ bất trắc ngoan, đà, giao long.(2)
___________________________
(1). Dịch nghĩa:
Hào Sáu ba: Ngậm văn vẻ, có thể chính;
Hoặc theo đuổi việc nhà vua, không cậy công? Thì được tốt lành về sau. (Trích từ Quẻ Khôn trong Kinh Dịch - Ngô Tất Tố dịch và chú giải).
(2). Dịch nghĩa:
Nói về nước, chỉ có một gáo, nhưng sức mạnh là không lường được của nó, thì nào giải, nào rùa, nào thuồng luồng, nào rồng cũng sinh từ đó. (Trích từ Chương 26 - Phần III - Sách Trung Dung - Phan Khoang chú giải).

Lều chõngNơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ