Triều phục của quan nhà Nguyễn

82 1 0
                                    


[ Quy chế triều phục quan lại nhà Nguyễn ]

Thời xưa trang phục thường được phân loại theo cách cắt của cổ áo thành ba dạng: đối lĩnh (tức giao lĩnh), trực lĩnh và bàn lĩnh.

– Đối lĩnh, hay giao lĩnh, có cổ cắt vạt chéo cài sang bên phải. Đây là lễ phục trang trọng nhất trong các lễ phục cổ truyền, được mặc trong các lễ tế. Cao cấp hơn cả của loại này là áo cổn ở trong cung, may bằng đoạn thất thể rất quý hiếm, thường được vua, quan mặc trong lễ tế Giao. Tay áo giao lĩnh cắt thụng, khi buông xuống dài bằng gấu áo. Các nước Đồng văn trọng Khổng giáo ở Á châu như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam đều có áo này. Dưới thời Nguyễn ở Việt Nam phụ nữ không mặc giao lĩnh. Hiện nay trong nhiều lễ tế đình ở các làng, xã, người mình vẫn mặc áo giao lĩnh.

– Trực lĩnh, tức là áo có vạt xẻ dọc ở giữa thân trước. Lễ phục trực lĩnh trong cung thời Nguyễn dành riêng cho các bà và gọi là áo mệnh phụ. Áo này không được vua quan, nam phái trong triều đình Việt Nam sử dụng.

Trong khi đó các nam đạo sĩ Lão giáo bên Trung Quốc lại có mặc áo được cắt y hệt như áo mệnh phụ của phụ nữ Việt. Áo nhật bình của các sư sãi trong nước cũng thuộc dạng trực lĩnh. Lễ phục trực lĩnh cũng may rộng, xẻ bên, và có tay cắt thụng dài bằng gấu. Áo được xẻ vạt bên hông.

– Bàn lĩnh, tức áo cắt cổ tròn, có hay không có cổ đứng đính liền, vạt cài sang phải. Lễ phục bàn lĩnh phổ thông nhất ở nước ta trước đây. Ở trong cung áo này được cả nam lẫn nữ phái sử dụng dưới dạng long bào, phượng bào của vua, hoàng thái hậu, hoàng quý phi; và mãng bào của thân vương, hoàng tử và các quan. Các áo bào này được may bằng gấm thất thể hay ngũ thể quý hiếm, và có cổ tròn không đính cổ đứng. Áo rất rộng, xẻ bên. Tay cắt thụng dài bằng gấu áo. Áo được mặc trong các lễ đại triều, triều yến.

Nhưng lễ phục bàn lĩnh phổ thông nhất ngày xưa của người Việt, cả ở trong cung lẫn ngoài phố, là bàn lĩnh có cổ đứng, gọi là áo Tấc. Áo cũng cắt rộng, xẻ bên, với tay thụng dài bằng gấu, cài khuy bên phải như áo dài. Áo Tấc rất thông dụng, được mặc trong các lễ yết miếu, từ đường, việc hỷ, cũng như các việc thăm viếng quan trọng.
Sử sách cận đại của Nguyễn triều ít khi đề cập đến triều phục của quan lại. Thảng hoặc mới có nhắc đến một vài đạo dụ liên quan đến vấn đề này. Thí dụ như dụ năm 1886 của vua Đồng Khánh, hay các đạo dụ 1920 và 1921 của vua Khải Định. Các đạo dụ này thật ra có chủ ý khiển trách các sự cẩu thả trong việc xử dụng triều phục, cũng như tiếm lạm trong mầu sắc trang phục của các quan thời bấy giờ. Thí dụ như thường dân dám mặc áo mầu chính hoàng. Rồi việc quan cấp dưới dám tiếm dụng sắc áo của hoàng tử, hoàng thân. Hay về việc vì công quỹ không đủ để tiếp tục cấp nhung phục cho các quan với các sắc mầu và hoa văn đúng theo lệ cổ, cho nên phải thay bằng các áo tứ linh mầu xanh lá cây cho văn ban và mầu huyền cho võ ban từ chánh nhị phẩm đến tòng tam phẩm (thực ra hai sắc vải này có vẻ đã được dùng để may áo chầu nhiều hơn là may nhung phục).

Nhưng điều quan trọng là qua các đạo dụ này người ta biết thêm một loại lễ phục nữa trong triều đình, bên cạnh các áo lễ tay rộng (phổ phục) vẫn phổ biến như áo cổn, áo chầu. Đó là nhung phục. Nhung phục cũng được may rộng như phổ phục, với cùng loại vải, hoa văn và mầu sắc với áo chầu của người mặc. Nhưng nhung y có tay áo cắt chẽn như tay áo dài. Nói cách khác, nhung y là áo tấc tay hẹp.

Nghìn năm Cổ Đại Nơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ