7.1 | Hoa trái quanh tôi (1983) - Hoàng Phủ Ngọc Tường

19 0 0
                                        

SGK

  Từ cổng vào, lần nào tôi cũng dừng lại ngắm những cây hải đường trong mùa hoa của nó; hai cây đứng đối nhau trước tấm bình phong cổ, rộ lên hàng trăm đóa ở đầu cành phơi phới như một lời chào hạnh phúc. Nhìn gần, hải đường có một mầu đỏ thắm rất quý, hân hoan, say đắm. Tôi vốn không thích cái lối văn hoa của các nhà Nho cứ muốn tôn xưng hoa hải đường bằng hình ảnh của những người đẹp vương giả. Sự thực thì ở ta, hải đường đâu phải chỉ mọc nơi sân nhà quyền quý; nó sống khắp các vườn dân, các sân đình, chùa, nhà thờ họ. Dáng cây cũng vậy, lá to thân khỏe, sống lâu nên cội cành thường sần lên những lớp rêu da rắn mầu gỉ đồng, trông dân giã như cây chè đất đỏ. Hoa hải đường rạng rỡ nồng nàn, nhưng không có vẻ gì là yểu điệu thục nữ, cánh hoa khum khum như muốn phong lại cái nụ cười má lúm đồng tiền. Bỗng nhớ năm xưa từ chiến trường ra, lần đầu lên thăm đền Hùng, tôi đã ngẩn ngơ đứng ngắm hoa hải đường nở đỏ núi Nghĩa Lĩnh.  

(trích)

-------------------------------------------------

Hình như khi xây dựng nên đô thị của mình, người Huế không bộc lộ cái ham muốn chế ngự thiên nhiên theo cách người Hy Lạp và người La Mã, mà chỉ tìm cách tổ chức thiên nhiên trở thành một kẻ có văn hóa để có thể tham dự một cách hài hòa vào cuộc sống của con người, cả bên ngoài và bên trong. Lớn lên ở Huế, không lúc nào tôi không cảm thấy thành phố nầy như một khu vườn thân mật của mình ở đó, tôi có thể tư duy cùng với hoa sen, khát vọng với hoa phượng, mơ mộng với mùi hương sâu thẳm của hoa ngọc lan ban đêm, và khi thành phố lộng lẫy trong sắc mai vàng mùa Xuân, không hiểu sao lại thấy lòng thức dậy một niềm ngưỡng mộ bao la đối với cuộc sống.

Cũng ít có một thành phố nào như nơi đây, giữa tạo vật và con người luôn luôn gắn bó một tình bạn thân thiết và tươi xanh đến như vậy. Cho đến nay, người Huế vẫn còn duy trì một phong tục cổ xưa về tình bạn cao quý đó: khi người chủ vườn qua đời thì những người già đem buộc băng tang vào những cây quý trong vườn để cây khỏi tàn lụi theo, vì người ta tin rằng cây cũng vui buồn cùng với con người. Không nên nhầm lẫn mối thân tình nầy với điều vẫn gọi là "tình bạn" mà nhiều người phương Tây, như người Anh chẳng hạn, thường cảm thấy đối với loài vật. Ở đây, quan hệ con người - cây cỏ xuất phát từ một truyền thống triết lý sâu xa của phương Đông rất được nhấn mạnh trong tâm thức người Huế, rằng con người vốn là kẻ cư ngụ trong căn nhà lớn của vũ trụ; từ đó, trong cố gắng vươn tới niềm hạnh phúc về tinh thần, con người luôn luôn biểu hiện nỗi khát khao tìm về nơi ăn chốn ở nguyên khởi của nó, nơi thực sự nó đã sinh ra. Dân gian kể rằng trong nỗi bất hạnh của đời người, cô Tấm đã hai lần sống ngụ trong cây thị và cây sầu đông. Tôi thường đọc thấy cái ý tưởng ấy bàng bạc khắp nơi trong cảm hứng của các nghệ sĩ Huế: những nghệ nhân trang trí thích dùng môtíp con chim phượng (chim phượng luôn luôn tượng trưng cho sự thăng hoa của tâm linh) hóa thân từ lá cây; trong một tác phẩm lụa của họa sĩ Tôn Thất Đào, núi Ngự Bình được nhìn thấy như là một cô gái nằm mơ màng giữa những cánh thư màu xanh vốn là những ruộng lúa; hoặc nơi này nơi kia trong những bài hát quen thuộc của Trịnh Công Sơn: "nhiều khi tưởng tôi là lá cỏ - ngồi hát ca rất tự do".

Lật lại cuốn sổ ghi chép về Huế, tôi chợt thích thú một cách bất ngờ khi đọc lại một câu của Mác, không nhớ tôi đã ghi lại từ lúc nào. Mác viết rằng: "Chúng ta không thể đối xử với thiên nhiên, thống trị thiên nhiên như kẻ xâm lược thống trị dân tộc khác, như một kẻ đứng ngoài thiên nhiên. Trái lại, chúng ta thuộc về nó, cả xương, thịt, máu và trí tuệ, và chúng ta ở bên trong nó". Giữa những điều tôi đang suy nghĩ, như trong một văn cảnh chung, lời của Mác vang lên trong từng ý nghĩa của mỗi từ; và tôi tưởng chừng như trong khi đưa mắt nhìn khắp thế giới bằng cái nhìn xoáy tận bản thể của ông, Mác đã nhìn thấy thành phố xanh biếc của đất nước tôi.

Cùng với mọi nhu cầu của con người hiện đại, có lẽ người Huế vẫn giữ riêng trong tâm hồn mình bản chất của một nhà thơ đồng nội.

***
Có một khái niệm kinh tế rất được chú ý đối với Huế, gọi là "kinh tế vườn". Tất nhiên là vậy, vì vườn Huế được tạo dựng nên đâu phải nhằm đáp ứng nhu cầu riêng của các vị Thám Hoa (1), chỉ nhìn ngắm mà không cần ăn quả. Nhưng dù vẫn là nơi nổi tiếng về cây trái đôn hậu, sẽ là vô ích nếu người ta định tìm kiếm ở Huế những khu vườn cao sản kiểu vựa trái của miền Đông Nam bộ, và nếu người ta quên không nhìn đến diện mạo văn hoá của cái thế giới thực vật nho nhỏ kia.

Thuở xưa thành phố chưa trồng phượng, cây hòe nở hoa vàng trước cửa sổ luôn luôn đánh thức nỗi xôn xao của đèn sách; người học trò xưa vẫn nhớ câu "hòe hoa hoàng, cử tử mang" (2). Vườn Huế, dù giàu hay nghèo, thường vẫn có cổng gạch, mái khá rộng, phía ngoài trồng vài cây có quả: ấy là chỗ dừng chân qua cơn mưa, là bóng mát dành cho người đi đường, là chút lộc hoa trái dành cho trẻ con trong xóm; cổng nhà nhìn ra nên luôn luôn ngụ tấm lòng người nhu mì thơm thảo. Người Huế lập vườn, trước hết như là nơi cư ngụ của tâm hồn mình giữa thế gian, ước mong sẽ là chút di sản tinh thần để đời cho con cháu.

Vườn An Hiên là một kiểu vườn Huế như vậy.

Những năm gần đây, bà Lan Hữu phải tiếp khách hơi nhiều trong ngôi nhà cổ kính của bà, ở khá xa thành phố. Khách ngoài bắc trong nam, quen hay lạ, đến Huế đều muốn tìm thăm khu vườn của bà. Điều này hình như không hợp với thói quen của bà, bởi vì dù ham hoạt động xã hội, bà vẫn thích dành riêng cho mình cuộc sống tĩnh mịch của người làm vườn. Chồng mất từ hồi bà còn trẻ, bà về sống một mình với khu vườn này đã hơn bốn chục năm qua, trồng cây như ở đời, thẩm nhập vào trong hoa trái tất cả niềm cảm hứng tự do của một nghệ nhân tự thể hiện "cái tôi thứ hai" của mình.

Dù trong những ngày thanh thản nhất, tôi vẫn cứ thấy như là yên lòng trở lại mỗi lần bước qua cái vòm cổng kia, thấy nhô lên ở cuối sân chiếc mái ngói cổ với những nét uốn cong giống như nụ cười nhếch mép của thời gian phảng phất giữa ngàn lá xanh biếc. Một lối đi khá dài, hai bên trồng mai trắng, lá đan vòm che trên đầu người như nối dài thêm cái vòm cổng vào đến sân. Tôi vẫn dành một niềm ngưỡng mộ riêng về chất trí tuệ của truyền thống dân tộc ở Huế qua cái "ngỏ hạnh" này: ở đây, qua vài chục bước đi thong thả dưới lá xanh, nó thường mang lại cho tôi một món quà tâm hồn nửa thực nửa ảo thực khó tả - một chút hương đăng đắng của rừng mùa thu, một mảnh nhỏ xa xôi của biển. Trong phút chốc, nó đánh thức con người mơ mộng trong tôi để rủ nhau vào cuộc đối thoại với cây cỏ.

Vườn có một cây ngọc lan già năm chục tuổi, đứng sát cổng, cây cao bóng cả, đồ sộ như một áng thơ dân gian. Thu tàn đông lạnh, nó chỉ rụng lác đác ít lá vàng, vẫn giữ một mầu lục tươi nguyên khối không hề biết đến năm tháng; cây già mà hoa trẻ, những cánh mầu ngà thon thon dáng ngón tay thiếu nữ, cầm hoa như giữ trong tay một kỷ niệm xao xuyến. Hồi tôi đến đây, cây ngọc lan vẫn còn, hoa nở không có mùa, cứ mỗi cơn mưa cơn nắng chợt đến lại bừng lên dễ đến hàng vạn đóa trên cây, hương bay xa mấy dặm, giống như người danh sĩ dân giã trong vùng chưa gặp đã biết. Tiếc quá, pháo Mỹ hồi tết Mậu Thân đã găm vào thân cây một mảnh đạn không gắp ra được; nó vẫn xanh tươi nhưng rỗng ruột dần; nấn ná bao lâu rồi bà Lan Hữu đành phải cho đốn đi, sợ có lúc nó đổ xuống làm sập cổng. Tôi đi xa về, không còn cây ngọc lan, lòng cứ bâng khuâng như thể mùa thu đã mất đi, dù rằng đối với mùa thu thực sự thì chưa bao giờ tôi cảm thấy mất mát như vậy cả. Hôm nọ đi quanh vườn, tôi lại chợt nghe mùi hương ngọc lan thơm nồng, cứ tưởng là ảo giác về nó. Tìm mãi, thấy ở góc vườn một cây hoa lạ, cũng là ngọc lan nhưng hoa vàng mầu đu đủ chín hườm, tôi mới biết lần đầu. Hỏi bà Lan Hữu, mới hay đó là hoa hoàng lan, thường gọi là bông sứ vàng, giống còn lại ở Huế rất hiếm. Tôi thường đi dạo trong vườn, đưa mắt nhìn cây cối trong vẻ đẹp của nó, thế mà thỉnh thoảng cứ thấy bị bất ngờ về những bí mật ấp ủ trong hoa trái; khu vườn đối với tôi vẫn mãi giữ sức hấp dẫn của một cuốn sách hay chưa đọc hết.

Tôi đã được nghe nhiều nhận xét thực tế, và vẫn chưa được giải thích, về tính tổng hợp đặc biệt của môi trường sinh thái riêng của vùng Huế. Không hiểu vì sao đất Huế lại là nơi quần tụ của các loại cây trái đặc sản của hai miền nam-bắc. Cây măng cụt chẳng hạn, từ miền đông Nam bộ nó nhẩy băng qua suốt một dải miền trung rồi xuất hiện trở lại ở những khu vườn Huế từ Đông Hà trở ra lại không còn thấy bóng dáng; tương tự như vậy nhưng theo chiều ngược lại, cây vải Hưng Yên hoặc nhiều thứ hoa quả khác của phong thổ miền sông Hồng. Vườn An Hiên thật là Huế, trong cái nét tổng hợp những đa dạng đó của đất nước. Nó cũng thật là Huế, khi trong phòng tiếp khách của bà Lan Hữu vào cuối mùa đông, người ta có thể nhìn thấy trên một đĩa cắm hoa, những bông mai trắng điểm tuyết bên cạnh mấy nụ đào hồng mới chớm. Đó là bóng dáng của mùa đông đang ra đi, trong âm vang xa xôi của mùa xuân sẽ về. Và đó cũng chính là cái nhìn hướng vọng của tâm hồn mà bà nuôi dưỡng lặng lẽ, giữa tháng năm, đất nước, đời người...

***

Ngữ Văn (Phần 1 - 6, 7)Nơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ