Chương 11. HANS EYSENCK VÀ NHỮNG NHÀ HỌC THUYẾT CÁ TÍNH

414 2 0
                                    

Chương 11. HANS EYSENCK VÀ NHỮNG NHÀ HỌC THUYẾT CÁ TÍNH

CÁC HỌC THUYẾT TÂM LÝ NHÂN CÁCH

1. Dẫn nhập

Trong chương này chúng ta sẽ giành riêng để thảo luận Những Học Thuyết Về Cá Tính con người. Cá tính con người là một khía cạnh phạm trù thuộc nhân cách con người có nguồn gốc nơi cấu trúc gien, do bẩm sinh, tính từ lúc chúng ta còn là những bào thai. Điều này không có nghĩa là nhân cách của chúng ta không đến từ kinh nghiệm học hỏi được trong môi trường cuộc sống. Nói khác đi, Những Học Thuyết Về Cá Tính chỉ tập trung vào khu vực phát triển tự nhiên và nhường lại khu vực hấp thụ giáo dục cho những học thuyết khác.

Vấn đề cá tính, đối chiếu với nhân cách, là một vấn đề có lâu và xuất hiện từ khi khái niệm tâm lý học ra đời. Có thể nói, cá tính có thể đã xuất hiện trước cả tâm lý học. Những học giả cổ xưa của Hy Lạp cổ đã suy nghĩ về vấn đề này rất nhiều và đã đưa ra hai chiều kích của cá tính, và dẫn đến 4 tuýp cá tính dựa vào bốn loại dịch cơ thể xuất hiện nhiều hay ít trong cơ thể người. Thuyết này đã từng có một vị trí xứng đáng trong lịch sử thời Trung Cổ. Nhớ lại trong chương 6, chúng ta thấy Adler đã có những đối chiếu nhân cách của mình với những mô hình cá tính này của người Hy–lạp cổ.

Tuýp người nhiệt huyết – có bầu máu nóng: là người vui vẻ hoạt bát và theo người Hy Lạp cổ, họ là người có nhiều máu. Sanguis theo tiếng Latinh có nghĩa là máu. Họ là những người khỏe mạnh và hồng hào, khỏe khoắn.

Tuýp người nóng nảy: thường là tuýp người có tính nết thù địch. Chất dịch cơ thể được qui cho là mật, đây là mẫu người có khuôn mặt vằng vọt với những cơ bắp nơi mặt nổi cộm.

Tuýp người chậm chạp, lười biếng và tẻ nhạt: được coi là tuýp người có nhiều đờm dãi, vốn là chất nhày tiết ra từ phổi và cuống phổi. Họ là những người chân tay lạnh lẽo, run rẩy, ù lì thụ động.

Tuýp người buồn bã chán chường: thường thấy qua trạng thái trầm uất hoặc bi quan. Theo người Hy Lạp cổ thì một chất dịnh cơ thể là mật đen (black bile) có quá nhiều trong cơ thể đã dẫn đến tình trạng này. Tuy nhiên chúng ta thật khó xác định được người xưa muốn ám chỉ điều gì khi nói đến mật đen.

Bốn tuýp người vừa nêu trên đã cung cấp nền tảng cho hai nhánh đối lập là nhóm người nóng tính là tuýp người nhiệt huyết có máu nóng – ấm và ẩm và tuýp người nóng tính ẩm và khô. Một nhóm khác là người co cụm, bao gồm tuýp người đờm nhớt – lạnh và ướt và tuýp người chán nản – lạnh và khô (cold and dry). Ngoài ra còn có thuyết tin rằng môi trường khí hậu sẽ tạo ra cá tính con người. Chẳng hạn như ở Italy là tuýp người nhiệt huyết (ấm và ẩm), người Ảrập là người nóng tính (ấm và khô), người Nga là người buồn nản (lạnh và khô), và người Anh là người chán nản yếm thế (lạnh và ẩm).

Điều đáng ngạc nhiên là học thuyết cá tính này chỉ dựa vào những cơ sở ít ỏi nhưng có ảnh hưởng lớn lên vài nhà học thuyết cận đại như Alfred Adler. Nhất là khi ông đã mượn mô hình bốn tuýp người nói trên và vận dụng vào học thuyết của mình. Ngay cả Ivan Pavlov, nhà bác học Nga vĩ đại có ảnh hưởng đến B. F. Skinner cũng đã sử dụng dịch cơ thể để diễn tả nhân cách những con chó của mình.

CÁC HỌC THUYẾT TÂM LÝ NHÂN CÁCHWhere stories live. Discover now