KINH GIẢI THÂM MẬT

252 0 0
                                    

Kinh Giải Thâm Mật

HT. Thích Trí Quang dịch giải

(chỉ giữ phần chính văn, bỏ phần lược giải)

Mục Lục 

Phẩm một: Mở Đầu
Phẩm hai: Thắng Nghĩa
Phẩm ba: Tâm Thức
Phẩm bốn: Tự Tánh
Phẩm năm: Vô tánh
Phẩm sáu: Du Dà
Phẩm bảy: Địa Độ
 
Phẩm tám: Phật Sự

Ghi Sau Khi Duyệt Giải Thâm Mật

Giải thâm mật và Nhiếp luận gần gần như nhau. Nhưng rõ ràng Giải thâm mật nói đặc biệt về bản thể siêu việt, về du dà chỉ quán, nhất là về 3 vô tánh và về Phật ẫ thì không đâu sánh bằng.

Mồng một tháng 5.2537.

Trí Quang

Phần Dẫn Nhập

(1) Giải thâm mật là bộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736). Tháng 3 năm 51 tuổi, dương lịch 646, ngài Huyền tráng khởi dịch Du dà, năm sau dịch Giải thâm mật, tháng 3 năm sau nữa dịch xong Du dà.Giải thâm mật của ngài Huyền tráng dịch được gọi tắt là Đường dịch.

Trước đó, dương lịch 453 (hoặc 443), ngài Cầu na bạt đà la đã dịch 2 phẩm bảy và tám, đề Tương tục giải thoát liễu nghĩa kinh.Dương lịch 515, ngài Bồ đề lưu chi dịch trọn bộ, đề Thâm mật giải thoát kinh, bộ này được gọi là Ngụy dịch. Dương lịch 561, ngài Chân đế dịch phẩm một mà chia nhỏ làm 4 phẩm, lại sớ giải thành 4 cuốn (tìm chưa thấy, chỉ thấy Viên sớ trích dẫn). Các bản dịch trên đây đều nằm trong Chính 16/665-720, riêng Đường dịch còn có trong Chính 30/713-736 (luận Du dà).

Tài liệu để có ghi chú trên đây là Vạn 34/299; Chính 49/94, 45, 42; Phật học nghiên cứu, bài 10 và 18 (phụ lục 3); Thế giới đại sự biểu của Từ nguyên. Ghi chú trên đây cho thấy Ngụy dịch và Đường dịch đều hoàn chỉnh. Nhưng Đường dịch hoàn hảo hơn, bởi vì dịch chủ là ngài Huyền tráng, dịch kinh này là bộ kinh căn bản của Duy thức học mà, trong Phật giáo văn hệ Trung hoa, ngài là vị sơ tổ.

Sớ giải Giải thâm mật thì bản tôi học là của đại sư Khuy cơ, bài tựa nói trích từ tác phẩm sớ giải Du dà mà khắc in riêng ra.Tiếc rằng hiện tôi không có bản này. Dò tìm cũng chưa thấy tác phẩm sớ giải Du dà nói trên. Còn bản sớ giải mà tôi hiện có là của đại sư Viên trắc. Đối với ngài Huyền tráng, đại sư là người sóng đôi mà khá mâu thuẫn với đại sư Khuy cơ, một vài truyện ký tương truyền như vậy. Đại sư Viên trắc sớ giải Giải thâm mật, nếu không phải trong lúc ngài Huyền tráng còn tại thế thì sau đó cũng không lâu. Trong sớ giải, đại sư trích dẫn lời ngài Huyền tráng khá nhiều. Bản sớ giải này gồm có 10 cuốn, nay chỉ thiếu cuốn chót, 9 cuốn hiện còn trong Vạn 34 và 35. Bản sớ giải này tôi gọi tắt là Viên sớ. Nhưng xin cảnh giác người đọc là chính văn Giải thâm mật của Viên sớ, qua Vạn 34 và 35 in lại, thì khá sai sót, nên phải dò lại chính văn ấy trong Chính 16/688-711 và 30/713-736.

Bản dịch giải của tôi lấy Đường dịch làm chính văn, lấy Viên sớ làm tài liệu tham chiếu.

(2) Giải thâm mật, Phạn tự là Sandhi-nirmocara, dịch âm là San địa niết mô chiết na. San địa có nghĩa sâu kín (thâm mật), đốt xương (cốt tiết hay tiết), nối nhau (tương tục). Niết mô chiết na là lý giải (giải), giải thoát. Vì những ý nghĩa nguyên thể và biến thể ấy mà các tên được dịch như đã thấy ở đoạn trên. Tựu trung, Đường dịch thì rõ và hay hơn cả. Còn sự thâm mật mà kinh này giúp ta lý giải thì sẽ thấy trong đoạn 3 dưới đây.

CÁC BẢN KINH VÀ LUẬNNơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ