12. HÔ-HÀO THANH-NIÊN SANG NHẬT CẦU HỌC

1 0 0
                                    

LƯƠNG-KHẢI-SIÊU nói tiếp :

« Thực-lực hệ-trọng hơn hết, không gì cho bằng nhân-tài. Vậy thì tôi tính kế cho quý-quốc bây giờ, trước hết ta hãy gắng công ra sức vun trồng nhân-tài. Hễ nhân-tài có đủ, thì chỉ đợi thời-cơ đưa đến là ta làm việc lớn được dễ-dàng ».

Tôi rất phục lời họ Lương nói phải lắm.

Trở về nhà trọ rồi tôi thao-thức suy-nghĩ cả đêm, không sao nhắm
mắt ngủ được.

Dòm quanh thế-giới như rồng bay hổ thét, như điện chớp mây tuôn,
nhân-tài có ngàn thứ muôn thứ, không có vẻ nào mà không mới lạ. Ngay đến một xó Đông dương nầy, nước nhà mình so-sánh đã đủ thua kém, người ta muôn phần, mình chẳng có một, còn nói Âu-Mỹ làm gì ?

Bởi vậy nuôi dựng nhân-tài là việc cần-kíp của mình, không đợi phải nói nữa. Song muốn nuôi dựng nhân-tài ta phải làm sao bây giờ, vì cái
thực-quyền giáo-dục nằm cả trong tay chính-phủ Pháp bảo-hộ ?

Dầu vậy mặc lòng, anh em chúng tôi còn đây, không lẽ nào chịu bó tay đợi chết cho đành. Giờ chỉ có cách là kêu gào bọn thiếu-niên trong nước tỉnh dậy, liều mình trốn ra nước ngoài học tập, như thế thì ta được tự-do mở
mang trí khôn, mà nước nhà mới chóng có nhân-tài đẻ ra được nhiều.

Tôi bèn đặt ra bài văn cổ-động bà con trong nước giúp tiền cho thanh-niên qua Nhật cầu học. Bài nầy chỉ viết lơ-thơ có mấy ngàn chữ, nhưng thật là một bài văn sinh-bình tôi lấy làm đăc-ý thứ nhất.

Là vì công việc tôi sắp-đặt lo toan từ trước đến giờ, đều chuyên-chú vào hiện-tượng trước mắt, đến sự mưu-đồ sự-nghiệp lâu-dài bền-vững cho nước nhà, thời chỉ có bài văn nầy thôi. Nếu như có hiệu-quả, người nước ta
du-học ngày thêm đông, nhân-tài ngày thêm nhiều, dân-trí ngày thêm cao, thì không gì nước Nam ta không có cơ sống lại.

Nhưng thủ-đoạn người ta áp-bức nặng-nề dữ-tợn, khiến cho làn sóng du-học chưa được năm sáu năm, đã làm cái đích cho muôn ngàn mũi
tên nhắm vào đó mà bắn, sự ấy trước kia tôi có dè đâu. Than ôi ! Tài hèn
sức mỏng, trăm việc làm đều không được như lòng mình muốn, thành ra đá hết rồi mà biển hận vẫn chưa lấp đầy, oan hồn Tinh-vệ, đêm ngày chỉ lênh đênh chìm-nổi với ba-đào, đau-đớn thay !

Bài văn Khuyên thanh-niên du-học viết xong rồi, thuê in ra mấy ngàn tập, giao cho Tăng-quân Bạt-Hổ đem về nước phát-hành. Mùa đông tháng chạp năm Ất-tị, Tăng-quân về nước, cốt lo cổ-động anh em qua học bên Nhật.

Vừa khi đó ông Nguyễn-Hải-Thần ở nước nhà trốn qua tới Nhật, gặp tôi ở Hoành-tân được đọc bài văn của tôi, ông lấy làm mừng lắm, tìnhnguyện
gánh vác khoản tiền tổn-phí cổ-động du-học-sinh.

Không bao lâu, tiếng vang-dội của bài văn tôi làm rung-động xôn xao cả trong nước.

Tháng giêng năm Bính-ngọ, tôi đến nhà ông Khuyển-dưỡng-Nghị để bàn-tính về việc đưa học-sinh Việt-Nam sang học, sắp đặt cho anh em cả trường học chỗ ở sẵn-sàng.

Lúc đó ông Phước-Đão đang làm hiệu-trưởng Chấn-võ học-hiệu tại
Đông-kinh, tôi liền xin cho Trần-hữu-Công  (tức là Nguyễn-thức-Canh), Lương Lập-Nham và Nguyễn-Điển ba người vô học trường ấy. Còn một người nữa là Lương-Nghị-Khanh thì vô học Đồng-văn thư-viện. Nước ta 4 ngàn
năm nay chưa hề có người nào du-học ngoại-quốc, có chăng là tự bốn
người nầy trước hết. Ôi ! lịch-sử quốc-dân ta như thế ai bảo là thằng bé con lụ-khụ trăm tuổi cũng phải.

Tháng 2 năm đó, bọn ông Tử-Kính đã phò-tá Hội-chủ Kỳ-ngoại-hầu
đến Hương-cảng, viết thư sang Nhật gọi tôi qua.

Lúc bấy giờ, bốn người thiếu-niên vừa mới được vô học trường Nhật, lại được nghe tin Hội-chủ xuất-dương yên-ổn, thật mấy năm nay chỉ có chuyện nầy tôi thấy vui mừng khoan-khoái hết sức.

Tôi nóng-nẩy muốn biết tình-hình trong nước gần đây ra sao, lại sẵn
có dịp đi nghênh-tiếp Hội-chủ, nên chi hạ tuần tháng hai, tôi đáp tàu qua ở
Nhật sang Hương-Cảng. Tới đây, vừa gặp Phan-quân Châu-Trinh 6 mới từ
nước nhà qua.

Phan-quân đi chuyến nầy, cốt muốn xem-xét tình-trạng văn-minh của Nhật. San khi gặp mặt tôi rồi, ông cùng tôi và Hội-chủ cùng xuống tàu
sang Nhật.

Chúng tôi đến Hoành-Tân vào hồi hạ-tuần tháng tư.

Tôi dẫn Phan-quân đi xem khắp các trường học và các nơi danh tiếng ở thành Đông-kinh, lại giáp mặt nhiều danh-nhân nước Nhật.Cách sau mấy tuần, ông nói với tôi :

- Xem dân-trí Nhật-bản rồi đem dân-trí ta ra so-sánh, thật không
khác gì muốn đem con gà con đọ với con chim cắt già. Giờ bác ở đây, nên
chuyên tâm ra sức vào việc văn, thức-tỉnh đồng-bào cho khỏi tai điếc mắt đui, còn việc mở-mang dìu-dắt ở trong nước nhà thì tôi xin lãnh. Lưỡi tôi đang còn, người Pháp chẳng làm gì tôi được mà lo.

Tôi cho lời ông nói rất phải. Rồi tôi viết ra tập đầu « Hải-ngoại
huyết-thư ». Nhân lúc Phan-quân về nước, tôi gửi đem Huyết-thư đó về.

Đối với bà con trong nước, tôi là một người khua động chuông chiều trống sớm để thức-tỉnh, thật là tập văn nầy nối gót Huyết-lệ Tân-thư mà ra đời vậy.

Cách không bao lâu, bọn anh em trong phái cấp-khích ở Nghệ-Tĩnh,
như mấy ông Đại-Đẩu, Thần-Sơn, phần nhiều viết thư hối-thúc tôi về việc quân-giới.

Chỉ một vấn-đề đó, khiến cho tôi hao-tốn không biết bao nhiêu tâm huyết mà gây ra lắm nỗi thất-bại thê-thảm, thật là khổ-não cho tôi !

Các ông về phái cấp-khích, có bầu máu nóng đáng kính, nhưng đầu
óc các cụ chỉ lo xông-pha bôn-tẩu trên một con đường bạo-động mà thôi.
Chính tôi lúc chưa bỏ nước ra đi, cũng chỉ có tư-tưởng giống y như thế ;
chừng sau ra ngoài được rộng kiến-văn và nhờ người ngoài giáo-huấn, tôi mới biết sự-nghiệp quang phúc nước nhà, không sao có cơ-sở cho thật bềnvững thì không làm nên.

Bởi vậy, một mặt tôi cổ-võ thanh-niên du-học, một mặt muốn mở mang
tư-tưởng ái-quốc cho toàn quốc-dân, tôi bèn viết ra Tân-Việt-Nam kỷ niệm-lực, Việt-Nam sử-khảo, và tập Hải-ngoại huyết-thư nối theo. Mấy thứ
sách nầy lời lẽ thống-thiết lâm-ly, chỉ có chủ-ý là trông mong quốc-dân ta
lấy Chiêm-thành Chân-lạp làm dấu xe nên tránh và rán theo chân nối gót
của Trưng-vương, Lê-hoàng, mà phát phần hăng-hái, tìm lấy sự sống ở
trong lúc chủng-tộc chưa tiêu, tính mạng chưa tuyệt này,bằng không thì trễ mất.

Ngục Trung ThưNơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ