BẾP LỬA - BẰNG VIỆT

2 1 0
                                    

BẾP LỬA – BẰNG VIỆT

A.Tác giả:

- Bằng Việt thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kháng chiến chống Mĩ...

B.Tác phẩm

1. Giới thiệu khái quát

- Bài thơ "Bếp lửa" được sáng tác năm 1963, khi tác giả 19 tuổi và đang học ngành Luật ở Liên Xô. Tác phẩm viết theo thể thơ tự do và được đưa vào tập thơ "Hương cây – Bếp lửa", tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.

- Bằng sự kết hợp hài hòa giữa biểu cảm với tự sự, miêu tả và nghị luận, bài thơ đã xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà và là điểm tựa khơi gợi mọi cảm xúc và suy nghĩ về tình bà cháu.

2. Phân tích bài thơ

a. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn dòng kỉ niệm

Bài thơ được bắt đầu bằng hình ảnh bếp lửa- một hình ảnh rất đỗi quen thuộc, bình dị ở mỗi làng quê Việt Nam:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!

Ba tiếng "một bếp lửa" láy đi láy lại, trở thành điệp khúc da diết ngay từ những dòng thơ đầu tiên. Bếp lửa được nhóm lên vào buổi sáng sớm, rung rinh, mờ tỏ. Hình ảnh ấy gợi cái ấm áp giữa "chờn vờn s-ương sớm", gợi cái thân thương với biết bao "ấp iu nồng đượm". Hai chữ "chờn vờn" giúp ta hình dung được ngọn lửa bập bùng, lay động, khi tỏ khi mờ; từ láy "ấp iu" không chỉ diễn tả thật chính xác công việc nhóm lửa mà còn gợi liên tưởng tới đôi bàn tay kiên trì, khéo léo và tấm lòng ấm áp, đôn hậu của người nhóm lửa.

Từ hình ảnh bếp lửa, rất tự nhiên, dòng hồi tưởng về bà chợt ùa về:

"Cháu thương bà biết mấy nắng mưa".

Khổ thơ đầu kết thúc trong cảm xúc của người cháu. Cảm xúc ấy bật ra bằng một chữ "thương", nó lan toả trong câu thơ và thấm sâu vào lòng người đọc. Cả bài thơ có hai chữ "thương", Bằng Việt đã dành trọn để "thương bà" (Cháu thương bà biết mấy nắng mưa, Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc). "Biết mấy nắng mưa", chỉ 4 chữ đã gợi ra hình ảnh của bà với bao lo toan, vất vả, lặng lẽ, âm thầm. Người cháu hiếu thảo cũng đôi lần nhắc lại: "Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa" - nỗi vất vả nhọc nhằn của bà trở thành nỗi ám ảnh day dứt khôn nguôi trong lòng cháu suốt đời. Hình ảnh người bà hiện lên trong tâm trí tác giả rất nhẹ nhàng, sâu lắng, mỗi lúc một rõ ràng và trở thành hình ảnh trung tâm trong các khổ thơ tiếp theo.

b.Kỉ nhiệm về những năm tháng sống bên bà

*Kỉ niệm về nạn đói năm 1945

Theo dòng hồi tưởng ấy, Bằng Việt trở về với những năm tháng tuổi thơ thiếu thốn, nhọc nhằn ám đầy mùi khói :

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

tài liệu ôn thi vào 10 ( văn )Where stories live. Discover now