Những góc nhìn mới mẻ trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu (PGS. TS Đặng Thu Thuỷ)
Nguyễn Minh Châu viết xong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa tháng 8 năm 1983. Câu chuyện đã xa cách chúng ta đã hơn 30 năm, khoảng thời gian đối với mỗi đời người cũng là đáng kể. Hơn 30 năm, đã có biết bao biến thiên trong đời sống xã hội, nhưng những vấn đề mà câu chuyện đặt ra không phải đã hết tính thời sự, thậm chí còn rất thời sự; nó không phải cái "đã là" mà là cái "đang là", là những chuyện hôm nay của chính chúng ta.
1. Chất đời từ góc nhìn xã hội
Đọc Chiếc thuyền ngoài xa, nhiều người đã e ngại vì những vấn đề xã hội mà nó đặt ra. Hình như toàn một gam màu xám. Chồng chất, ngợp thở, thắt lòng! Cuộc sống bấp bênh, khốn khó; tệ nạn xã hội: rượu chè, bạo hành gia đình: chồng đánh đập vợ tàn nhẫn, con đánh bố, thậm chí còn có ý định giết bố; sự bất lực của công lí, pháp luật và cả đạo đức, nguy hiểm hơn là tình trạng bế tắc, không lối thoát... Đây là lí do để một số người cho rằng Nguyễn Minh Châu có cái nhìn bi quan, thiếu tích cực về đời sống.
Bức tranh hiện thực kém phần tươi sáng này là kết quả của một sự quan sát, chiêm nghiệm về đời sống của một nhà văn "mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương con người". Tình yêu ấy, với ông "vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người chung quanh mình". Nguyễn Minh Châu đã nhìn sâu vào hiện thực, xuyên qua màn sương mờ ảo, đẹp đẽ, mộng và thơ để nhìn ra cái thực, không ảo, không thơ, "phát giác sự vật ở cái bề chưa thấy, ở cái bề sau ở cái bề sâu ở cái bề xa" (Chế Lan Viên). Quan niệm về hiện thực phức tạp, đa diện, về cuộc đời đa đoan đa sự là quan niệm rất đáng chú ý của nhà văn ở thời điểm đó. Cuộc sống của chúng ta đang diễn ra, đang là sự tương tác giữa những cái có lí và phi lí, những tất yếu và ngẫu nhiên. Bao nhiêu nghịch lí đời sống đã được phơi bày trong truyện ngắn của ông.
Cuộc sống trên mặt đất và cuộc sống trên sông nước; bình yên và bão tố; nơi có cơm ăn áo mặc và nơi chỉ có xương rồng chấm muối; nơi có công lí, pháp luật điều hành và nơi chỉ có luật lệ của tự nhiên, của sông nước; một người trưởng phòng thông minh muốn có tờ lịch tĩnh vật hoàn toàn nhưng thực tế thì hình ảnh con người lại không thể tước bỏ; một nghệ sĩ săn được một cảnh biển và thuyền đẹp toàn bích thì chính từ đó lại hiện ra một cảnh tượng vô cũng xấu xí, đằng sau cái đẹp mơ mộng thi vị là những nhọc nhằn, đau thương của kiếp người; người đàn bà xấu xí lại là mẹ của một cô gái xinh đẹp; người nghệ sĩ chuyên sáng tạo nghệ thuật lại có nắm đấm rắn sắt ra trò đối với gã đàn ông vũ phu; người đàn bà bị chồng đánh đập hành hạ vô lí nhưng không muốn từ bỏ ông ta, người là nạn nhân lại luôn nghĩ mình là tội nhân, là nguyên nhân gây ra đau khổ (cái lỗi chính là đám đàn bà trên thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật); đứa con muốn bảo vệ mẹ thì lại trở thành đứa con bất hiếu; người mẹ muốn bảo vệ con, thương yêu con nhất mực thì lại trở thành nỗi đau, nỗi lo âu khắc khoải của đứa con; cái đẹp hiện hình ngay trong những nhọc nhằn thô kệch; những người nhân danh công lí, tình thương, muốn đem lại công bằng cho những kiếp nạn đau khổ lại chính là những người được giáo hoá bởi những lí lẽ của cuộc đời phàm trần. Từ đây, họ mới vỡ lẽ ra những chân lí tưởng chừng là nghịch lí của đời sống: "Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc... Là bởi các chú ko phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một cái thuyền ko có đàn ông... cũng có khi biển động sóng gió chứ... đám đàn bà hàng chài chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ ko thể sống cho mình như ở trên đất được". Cái lí lẽ của người đàn bà từng trải khiến cho những người như Phùng, như Đẩu từ bỏ cái nhìn duy lí về cuộc đời và con người, từ bỏ những ảo tưởng về sự thay đổi dễ dàng cuộc sống của người dân khi được cách mạng giải phóng (không phải cứ bỏ chồng thì cuộc đời người đàn bà sẽ sáng sủa hơn: "Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu! Các chú đừng bắt tôi bỏ nó!". Cái nghịch lí lớn nhất là: chúng ta có độc lập tự do nhưng chưa có đủ hạnh phúc cho con người. Chừng nào, con người còn phải chật vật vì miếng cơm manh áo, chừng nào vấn đề về cái đói và miếng ăn còn là mối lo lắng hàng đầu; chừng ấy, cái đẹp và những giá trị nhân văn còn có nguy cơ bị suy kiệt. Nhà văn viết về hiện trạng ấy với một mối lo âu và hoài nghi nặng trĩu: chúng ta giải quyết nỗi lo âu ấy chỉ bằng thiện chí thì bao giờ những số phận bi kịch ấy mới tìm được lối thoát? Liệu rồi đây, thằng Phác có trở thành một người đàn ông như bố nó, chị nó có trở thành một người phụ nữ như mẹ nó, nhà nhiếp ảnh có phải quăng đi máy ảnh? Niềm vui bé mọn, ngỡ như tầm thường của người đàn bà (vui khi nhìn đàn con được ăn no) mới xót xa làm sao! Câu chuyện kết thúc bằng sự vỡ lẽ, giác ngộ của Phùng và Đẩu (sau khi nói chuyện với người đàn bà), và cũng chỉ dừng ở đó. Chiều hôm ấy, Đẩu lại kiên trì và thiện chí, đi gặp lão chồng bà ta để giáo dục răn dạy lão. Có lẽ, Đẩu cũng không làm gì hơn thế được. Những người tốt như Phùng, như Đẩu không thể giúp cho người đàn bà kia và nhiều người đàn bà khác được sống tốt hơn. Phùng còn bị ám ảnh mãi bởi hình ảnh người đàn bà như đang bước ra khỏi tấm ảnh, "Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông". Bà ta lại chìm lẫn trong cái đám đông khốn khó, nheo nhóc, như chẳng thể nào khác được. Muốn cho người ta sống cho ra con người, phải tạo ra cho họ một hoàn cảnh sống nhân đạo hơn. Tư tưởng này, Nam Cao đã trình bày từ rất sớm. Nguyễn Đình Thi cũng có lần nói: Thế nào là một xã hội nhân đạo? Một xã hội nhân đạo là một xã hội làm cho con người ta không còn đói nữa, bởi khi đói, con người nó sẽ nhe răng ra cả với nhau. Một cá nhân không thể làm được điều này. Đó là trách nhiệm của cả xã hội. Đấy cũng không chỉ là câu chuyện của ngày hôm qua mà còn là câu chuyện của hôm nay và ngày mai, cũng không phải chỉ trên dải đất này. Nguyễn Minh Châu có lần viết: khi bước ra khỏi một cuộc chiến tranh, con người ta cũng phải có đầy đủ nghị lực và bản lĩnh như khi bước vào một cuộc chiến tranh. Cuộc chiến đấu chống lại kẻ thù để giành lại độc lập tự do đã kết thúc, nhưng cuộc chiến với đói nghèo, bạo lực và tăm tối thì vẫn đang tiếp tục với rất nhiều gian khó.
BẠN ĐANG ĐỌC
Tài Liệu Văn Nghị Luận Xã Hội Và Lí Luận Văn Học
PoetryĐây là một số dẫn chứng tiêu cho văn nghị luận do mình sưu tầm về các nhân vật nổi tiếng như O Henrry, Bill Gate, Vincent Van Gogh, Newton, Nobell... Phần lí luận mình reup - chọn lọc - thay đổi/thêm lời văn của bản thân, chứ không hoàn toàn là do m...